Bệnh bạch cầu là một loại ung thư ảnh hưởng đến các tế bào tủy xương tạo ra các tế bào máu. Bệnh bạch cầu cấp tính là một tình trạng nghiêm trọng và nó phát triển nhanh chóng.
Myeloblasts và Lymphocytes là những loại tế bào bị ảnh hưởng trong AML và ALL. Nguyên bào tủy là tiền thân của bạch cầu.
Chúng phân chia và sau đó biệt hóa thành các loại bạch cầu khác nhau như bạch cầu trung tính, basophils và bạch cầu ái toan. Tế bào lympho là một loại tế bào bạch cầu.
Có hai loại tế bào lympho đó là tế bào lympho B và tế bào lympho T.
Các nội dung chính
- AML (Bệnh bạch cầu dòng tủy cấp tính) bắt nguồn từ các tế bào dòng tủy, trong khi ALL (Bệnh bạch cầu dòng lympho cấp tính) phát triển trong các tế bào bạch huyết.
- AML ảnh hưởng đến người lớn phổ biến hơn, trong khi TẤT CẢ phổ biến hơn ở trẻ em.
- Các phương pháp điều trị khác nhau, với AML cần các liệu pháp tích cực hơn TẤT CẢ.
AML so với TẤT CẢ
Sự khác biệt giữa AML và ALL là ở chỗ trong AML, việc sản xuất nguyên bào tủy, hồng cầu và tiểu cầu bị ảnh hưởng, nhưng trong ALL, việc sản xuất tế bào lympho bị ảnh hưởng. AML là loại bệnh bạch cầu phổ biến nhất xảy ra ở người lớn, trong khi ALL thường gặp ở trẻ em từ 2-10 tuổi. 40% số người dưới 60 tuổi khỏi bệnh AML. Tỷ lệ phục hồi là 30% đối với TẤT CẢ ở những người dưới 30 tuổi.

AML mở rộng thành bệnh bạch cầu tủy cấp tính. Đây là bệnh ung thư tủy xương trong đó tủy xương tạo ra các tế bào máu bất thường với số lượng lớn.
Tủy xương là mô mềm bên trong của xương. Tủy xương này là nơi các tế bào máu mới được hình thành.
Vì nó ảnh hưởng đến các tế bào dòng tủy và tiến triển nhanh chóng nên được đặt tên là bệnh bạch cầu dòng tủy cấp tính.
TẤT CẢ mở rộng như bệnh bạch cầu lymphoblastic cấp tính. Nó cũng là một loại ung thư tế bào máu lây lan nhanh chóng. Nó ảnh hưởng đến tế bào lympho chưa trưởng thành.
Đây là một tình trạng nghiêm trọng và nếu không được điều trị có thể gây tử vong. Nó rất phổ biến ở trẻ em và có thể được điều trị bằng thuốc thích hợp.
Nó hiếm khi xảy ra ở người lớn và có rất ít cơ hội chữa khỏi. Nó được gây ra do đột biến trong các tế bào tủy xương.
Bảng so sánh
Các thông số so sánh | AML | TẤT CẢ CÁC |
---|---|---|
tế bào bất thường | Hồng cầu, Myeloblasts và Tiểu cầu | nguyên bào lympho |
Sự bành trướng | Bệnh bạch cầu tủy cấp tính | bệnh bạch cầu lymphoblastic cấp tính |
Chẩn đoán | Xét nghiệm phết máu, sinh thiết tủy xương và phân tích tế bào học tế bào. | Đếm tế bào máu và chọc dò tủy sống để phân tích dịch tủy sống. |
Liệu pháp cảm ứng | Hóa trị | Hóa trị |
Liệu pháp củng cố | Hóa trị liệu liều cao và liệu pháp tế bào tạo máu. | Hóa trị đa thuốc, liệu pháp tế bào gốc và liệu pháp tế bào tạo máu. |
Tỉ lệ sống sót | 29.5% | 69.9% |
AML là gì?
Đột biến trong vật liệu di truyền gây ra AML. Những đột biến này làm cho các tế bào tủy xương tạo ra các tế bào máu tiền thân có thể phát triển thành các tế bào máu khác nhau với số lượng lớn.
Kết quả của việc sản xuất quá nhiều tế bào máu, những tế bào máu dư thừa này sẽ tích tụ và làm gián đoạn hoạt động của các tế bào khỏe mạnh bình thường.
Nguyên nhân thực sự của đột biến gây ra AML vẫn chưa được biết.
Tuy nhiên, các yếu tố rủi ro bao gồm các phương pháp điều trị ung thư trước đó như xạ trị và hóa trị, những người trên 60 tuổi có nhiều khả năng mắc AML hơn và Nam giới có xác suất mắc AML cao nhất.
Tiếp xúc với bức xạ hoặc hóa chất gây ung thư như benzen làm tăng nguy cơ, hút thuốc, rối loạn di truyền và máu khác cũng có thể làm tăng nguy cơ.
Tuy nhiên, những người không có yếu tố rủi ro cũng có thể phát triển AML. Một số người có các yếu tố rủi ro không phát triển AML.
Các triệu chứng ban đầu của AML tương tự như các triệu chứng cúm và triệu chứng của một bệnh thông thường khác. Nhưng trong các giai đoạn sau, các triệu chứng trở nên nghiêm trọng, bao gồm sốt, đau xương, thờ ơ, mệt mỏi, da nhợt nhạt, khó thở, nhiễm trùng thường xuyên, sưng hạch bạch huyết, chảy máu bất thường từ nướu và mũi, dễ bị bầm tím.
Do chức năng bạch cầu bất thường, hệ thống miễn dịch của cơ thể bị ảnh hưởng, do đó, người đó dễ bị nhiễm trùng.

TẤT CẢ là gì?
TẤT CẢ là do đột biến phát sinh trong DNA. Đột biến này ảnh hưởng đến quá trình phân chia tế bào bình thường và khiến các tế bào phân chia với tốc độ lớn.
Trong trường hợp này, tủy xương tạo ra tiền thân của các tế bào lympho với số lượng lớn, sau đó phát triển thành các tế bào bạch cầu được gọi là Lymphoblasts.
Những tế bào này phá vỡ hoạt động của các tế bào bình thường và hệ thống miễn dịch.
Các yếu tố rủi ro của TẤT CẢ là các rối loạn di truyền như hội chứng Down, là nam giới, tiếp xúc với bức xạ và các phương pháp điều trị ung thư trước đó.
Nhiễm một số loại vi-rút như vi-rút Epstein Barr hoặc vi-rút u lympho tế bào T cũng có thể dẫn đến sự phát triển của TẤT CẢ.
Các triệu chứng bao gồm sốt, đổ mồ hôi đêm, chán ăn, đau dạ dày và xuất hiện những đốm đỏ nhỏ dưới da. ALL được báo cáo nhiều nhất ở trẻ em và người lớn tuổi.
Các bác sĩ tiến hành các xét nghiệm chẩn đoán để xác nhận TẤT CẢ. Xét nghiệm công thức máu được thực hiện để kiểm tra số lượng tế bào máu khác nhau.
Chọc dò tủy sống được thực hiện để kiểm tra xem ung thư đã lan đến hệ thần kinh chưa, và dịch não tủy được rút ra và kiểm tra.
Hóa trị liệu cảm ứng được đưa ra ban đầu và hóa trị liệu đa thuốc được đưa ra như một liệu pháp củng cố để tiêu diệt bất kỳ tế bào ung thư nào còn sót lại.
Ghép tế bào tạo máu cũng được coi là liệu pháp củng cố.

Sự khác biệt chính giữa AML và TẤT CẢ
- AML khiến tủy xương tạo ra một số lượng lớn nguyên bào tủy, tiểu cầu và hồng cầu. Tuy nhiên, trong TẤT CẢ các tế bào lympho, quá trình sản xuất đều tăng lên.
- Cả AML và ALL đều là bệnh bạch cầu và các triệu chứng ít nhiều giống nhau.
- AML phổ biến ở những người già trên 60 tuổi, nhưng TẤT CẢ đều ảnh hưởng đến trẻ em từ 2-10 tuổi và những người trên 60 tuổi.
- Tỷ lệ sống sót của một người mắc AML trong 5 năm là 29.5%, trong khi tỷ lệ sống sót của TẤT CẢ là 69.9%.
- Chẩn đoán AML được thực hiện bằng xét nghiệm phết máu, sinh thiết tủy xương và phân tích tế bào học để phát hiện kích thước và hình thái tế bào. Các xét nghiệm được tiến hành trong trường hợp đếm TẤT CẢ tế bào và chọc dò tủy sống.
- Liệu pháp củng cố cho AML bao gồm cấy ghép tế bào tạo máu, hóa trị liệu liều cao và cấy ghép tế bào bất thường với tế bào gốc khỏe mạnh. Mặt khác, hóa trị đa thuốc, liệu pháp tế bào tạo máu và liệu pháp tế bào gốc là những liệu pháp củng cố cho TẤT CẢ.
