Một số lý thuyết phát triển cố gắng tìm hiểu quá trình thay đổi xảy ra trong xã hội. Mỗi lý thuyết phát triển đã trình bày một quá trình thay đổi độc đáo và dựa trên một loạt các phương pháp và nguyên tắc khoa học xã hội.
Lý thuyết phụ thuộc và lý thuyết hiện đại hóa là hai cách tiếp cận nổi tiếng với tư duy phân biệt đã phân biệt chúng.
Các nội dung chính
- Lý thuyết phụ thuộc cho rằng các nước kém phát triển vẫn nghèo do phụ thuộc vào các nước phát triển, những nước bóc lột họ về tài nguyên và lao động. Ngược lại, lý thuyết hiện đại hóa khẳng định rằng các quốc gia có thể đạt được sự phát triển thông qua công nghiệp hóa, đô thị hóa và thay đổi văn hóa.
- Lý thuyết phụ thuộc tập trung vào các hệ thống kinh tế toàn cầu và động lực quyền lực như những rào cản đối với sự phát triển, trong khi lý thuyết hiện đại hóa nhấn mạnh các yếu tố bên trong và áp dụng các mô hình tiến bộ của phương Tây.
- Cả hai lý thuyết đều cố gắng giải thích sự chênh lệch giữa các nước phát triển và kém phát triển nhưng đưa ra những quan điểm khác nhau về nguyên nhân và giải pháp tiềm năng cho tình trạng bất bình đẳng toàn cầu.
Lý thuyết phụ thuộc vs Lý thuyết hiện đại hóa
Lý thuyết phụ thuộc cho rằng các hệ thống kinh tế toàn cầu cho phép các nước giàu phát triển bằng chi phí của các nước nghèo hơn, dẫn đến bất bình đẳng. Lý thuyết hiện đại hóa cho rằng tất cả các xã hội đều tiến bộ qua các giai đoạn phát triển giống nhau và do đó, các khu vực kém phát triển ngày nay đang ở trong tình trạng tương tự như các khu vực phát triển ngày nay vào một thời điểm nào đó trong quá khứ.
Lý thuyết phụ thuộc đề cập đến một nghiên cứu cố gắng hiểu nguyên tắc thế giới. Theo ý tưởng này, các nước giàu hơn tăng cường sự giàu có bằng cách bóc lột các nước nghèo hơn về mối quan hệ giữa kinh tế và các yếu tố khác.
Vào cuối những năm 1950, chính khách và nhà kinh tế học người Argentina Raul Prebisch đã đề xuất lý thuyết phụ thuộc. Lý thuyết này đã trở nên phổ biến vào những năm 60 và 70.
Lý thuyết hiện đại hóa đã cố gắng tìm hiểu quá trình phát triển của xã hội và tiến hóa xã hội.
Chủ yếu có hai cấp độ phân tích trong lý thuyết hiện đại hóa cổ điển - sự phát triển kinh tế vĩ mô của hiện đại hóa tập trung vào quá trình rõ ràng và quỹ đạo thực nghiệm của quá trình hiện đại hóa các quốc gia và chính thể, xã hội và nền kinh tế của họ.
Cái còn lại là sự phát triển kinh tế vi mô của hiện đại hóa, nhấn mạnh các yếu tố cấu thành của hiện đại hóa xã hội.
Bảng so sánh
Các thông số so sánh | Lý thuyết phụ thuộc | Lý thuyết hiện đại hóa |
---|---|---|
Xuất xứ | Bằng cách tăng cường công nghệ, mọi quốc gia đều có thể trở nên giàu có và các nước nghèo cần phải đi theo con đường hiện đại hóa, các quốc gia giàu có hơn. | Ý tưởng của Max Weber, nhà xã hội học người Đức (1864-1920). |
Khái niệm cốt lõi | Các quốc gia thịnh vượng hơn mang lại giải pháp cho mọi vấn đề nghèo đói. | Nó được phát triển để chỉ trích lý thuyết hiện đại hóa. |
Trọng tâm chính | Các nước kém phát triển hoặc nghèo. | Các nước phát triển và giàu có. |
Lịch Trình Sự Kiện | Nó được phát triển vào cuối những năm 50. | Các nước phát triển hỗ trợ họ. |
Các nước giàu | Các quốc gia giàu có bị đổ lỗi cho việc tạo ra nghèo đói toàn cầu. | Họ được hỗ trợ bởi các nước thuộc thế giới thứ ba. |
Hỗ Trợ | Các nước phát triển hỗ trợ họ. | Được sự hỗ trợ của các nước phát triển. |
Lý thuyết phụ thuộc là gì?
Nền tảng của lý thuyết phụ thuộc xuất hiện vào những năm 1950 bởi chính khách và nhà kinh tế người Argentina Raul Prebisch.
Lý thuyết này khác với bất kỳ lý thuyết phát triển nào khác vì nó bắt nguồn từ một quốc gia thuộc thế giới thứ ba thay vì một quốc gia thuộc thế giới thứ nhất đã phát triển.
Các nhà tư tưởng phụ thuộc của các quốc gia thuộc thế giới thứ ba lo ngại về tình trạng bất công và bất bình đẳng mà các quốc gia của họ gặp phải. Trọng tâm chính của họ là tìm ra lý do của sự bất bình đẳng.
Các đề xuất chính của lý thuyết này là-
- Các nước thuộc thế giới thứ ba không tồn tại biệt lập. Các sự kiện chính trị ở các nước thuộc thế giới thứ ba có liên quan đến các vấn đề chính trị của các nước thuộc thế giới thứ nhất.
- Các sự kiện kinh tế và chính trị của các nước thuộc thế giới thứ nhất có ảnh hưởng lớn đến kinh tế và chính trị của các nước thuộc thế giới thứ ba. Tuy nhiên, các sự kiện kinh tế và chính trị của các nước thuộc thế giới thứ ba ảnh hưởng đến nền kinh tế và chính trị của các nước thuộc thế giới thứ nhất.
- Kinh tế và chính trị có mối tương quan với nhau, và thương mại kinh tế làm tăng khoảng cách giữa các quốc gia phát triển và đang phát triển thay vì giảm bớt.
- Các nước phát triển là nguyên nhân của sự kém phát triển ở các nước thuộc thế giới thứ ba.
- Chừng nào chủ nghĩa tư bản còn tồn tại trong chính trị và kinh tế thế giới thì tình hình của các nước phát triển và đang phát triển sẽ không thay đổi.
Các nhà tư tưởng của lý thuyết phụ thuộc cũng đưa ra một số lời khuyên để giải quyết mối quan tâm chính của họ, 'sự bất bình đẳng'. Họ đề xuất thành lập các khối thương mại chung, thị trường hoặc các-ten.
Các nước thuộc thế giới thứ ba sẽ được tận dụng bằng cách hình thành một mặt trận chung cốt lõi. Họ cũng đề nghị giới tinh hoa của các nước thuộc thế giới thứ ba chịu trách nhiệm đối mặt với tình trạng phụ thuộc của đất nước họ.
Giới tinh hoa được đề xuất đầu tư vào các chương trình văn học quốc gia hoặc các dự án xây dựng hơn là vào các ngành sản xuất hàng xa xỉ.
Lý thuyết hiện đại hóa là gì?
Đến cuối Thế chiến II, nhiều quốc gia ở Châu Mỹ Latinh, Châu Á và Châu Phi đã tiếp xúc với chủ nghĩa tư bản nhưng không phát triển được và vẫn còn nghèo. Trong bối cảnh đó, lý thuyết hiện đại hóa được phát triển vào cuối những năm 40 của thế kỷ 20.
Lý thuyết này nhằm đưa ra các giải pháp giảm nghèo phi cộng sản cho các nước thuộc thế giới thứ ba. Mục đích chính của nó là phát triển một mô hình phát triển công nghiệp hóa, tư bản chủ nghĩa bằng cách thúc đẩy các giá trị phương Tây dân chủ.
Có hai khía cạnh chính của lý thuyết này - nó giải thích lý do đằng sau tình trạng kém phát triển ở các nước thuộc thế giới thứ ba và đề xuất một giải pháp.
Theo các nhà tư tưởng hiện đại hóa, các nước thuộc thế giới thứ ba đang phát triển và chưa được phát triển bởi vì họ có một số rào cản văn hóa ngăn cản họ đi theo con đường của các nước phát triển.
Họ gợi ý rằng các nước thuộc thế giới thứ ba cần đi theo con đường của các nước phát triển, lấy các giá trị văn hóa của họ và phát triển nền kinh tế của họ thông qua công nghiệp hóa.
Để làm được điều đó, họ cần sự giúp đỡ của các nước phát triển phương Tây thông qua đầu tư và viện trợ.
Lý thuyết này ủng hộ mô hình phát triển tư bản công nghiệp. Các nhà tư tưởng hiện đại hóa tin rằng chủ nghĩa tư bản thúc đẩy sản xuất hiệu quả thông qua công nghiệp hóa, một quá trình phát triển hệ thống sản xuất dựa trên nhà máy.
Sự khác biệt chính giữa Lý thuyết phụ thuộc và Lý thuyết hiện đại hóa
- Lý thuyết phụ thuộc lần đầu tiên được đề xuất vào cuối những năm 1950 bởi chính khách và nhà kinh tế người Argentina Raul Prebisch. Mặt khác, nguồn gốc của lý thuyết hiện đại hóa là những ý tưởng của Max Weber, một nhà xã hội học người Đức.
- Theo lý thuyết phụ thuộc, một số quốc gia trở nên giàu có bằng cách bóc lột các nước yếu kém khác, đặc biệt là thông qua quá trình thuộc địa hóa. Mặt khác, lý thuyết hiện đại hóa thể hiện rằng bằng cách tăng cường công nghệ, mọi quốc gia đều có thể trở nên giàu có và các nước nghèo cần đi theo con đường của các quốc gia hiện đại hóa, giàu có hơn.
- Trọng tâm chính của lý thuyết phụ thuộc là các nước nghèo kém phát triển. Ngược lại, trọng tâm chính của lý thuyết hiện đại hóa là các nước phát triển và giàu có.
- Lý thuyết phụ thuộc được phát triển muộn hơn lý thuyết hiện đại hóa, được phát triển trong những năm 1940. Lý thuyết phụ thuộc được phát triển như là hành động của lý thuyết hiện đại hóa.
- Lý thuyết phụ thuộc đổ lỗi cho các nước giàu phát triển về tình trạng nghèo đói toàn cầu, trong khi lý thuyết hiện đại hóa đổ lỗi cho các nước nghèo kém phát triển ở thế giới thứ ba về tình trạng nghèo đói của họ.