Điện áp có nhiều loại thuật ngữ khác nhau, như thể suất điện động và hiệu điện thế là một phần của loại này. Nói một cách trừu tượng, điện áp là áp suất được tạo ra trong nguồn điện của mạch điện đẩy các electron tích điện chạy qua một dây dẫn, do đó gây ra dòng điện.
Tuy nhiên, tất cả các khái niệm phụ thuộc vào điện áp đều có cùng một công dụng: tạo ra dòng điện chạy trong mạch điện.
Các nội dung chính
- Lực điện động (EMF) là nguồn năng lượng điều khiển dòng điện trong mạch, trong khi hiệu điện thế (PD) là năng lượng được sử dụng trên mỗi đơn vị điện tích.
- EMF liên quan đến việc tạo ra điện áp, trong khi PD liên quan đến sự sụt giảm điện áp giữa các thành phần trong mạch.
- Pin và máy phát điện tạo ra EMF, trong khi PD được đo trên các điện trở và các thành phần điện khác.
Lực điện động so với sự khác biệt tiềm năng
Lực điện động không phụ thuộc vào điện trở của mạch và xác định sự khác biệt về điện thế cuối làm phát sinh dòng điện. Sự khác biệt tiềm năng tỷ lệ thuận với điện trở giữa hai điểm và xác định sự khác biệt về tiềm năng điện giữa các điểm.

Lực điện động không phải là một loại lực mà là một tác động điện được tạo ra bởi một nguồn phi điện. Hơn nữa, emf là điện tích gây ra bởi từ trường cũng như tế bào điện hóa.
thước đo của emf là công thực hiện trên một điện tích đơn vị. Nó được đại diện bởi ε, và đơn vị SI là Vôn (V).
Mặt khác, hiệu điện thế là sự chênh lệch được tính bằng lượng năng lượng mà điện tích mang từ điểm này đến điểm khác trong mạch. Tuy nhiên, nó được ký hiệu là điện áp. Nó được biểu thị bằng PD và đơn vị SI là Vôn (V).
Bảng so sánh
Các thông số so sánh | Lực điện động | Sự khác biệt tiềm năng |
---|---|---|
Ý nghĩa | Lực điện động là năng lượng trên một đơn vị điện tích được tạo ra bởi một nguồn điện hoặc không điện trong mạch. Nó được ký hiệu là Ɛ và đơn vị SI của nó là Vôn (V). | Sự khác biệt tiềm năng là lượng năng lượng được tính là sự khác biệt giữa điểm này và điểm khác trong một mạch. Sự khác biệt tiềm năng được ký hiệu là PD và đơn vị SI của nó là Vôn (V). |
Lịch Sử | Vào những năm 1830, Michael Faraday đã thiết lập phản ứng hóa học mới, trong đó hai điện cực-chất điện phân hình thành EMF cho pin mặt trời. | Sự khác biệt tiềm năng được xác định sau khi lý thuyết của Alessandro Volta đã được chứng minh. |
Gây ra | Lực điện động có thể được gây ra bởi các tế bào điện hóa hoặc bất kỳ thay đổi nào trong từ trường. | Sự khác biệt tiềm năng tạo ra khi dòng điện chạy qua dây dẫn, trong đó các electron tự do di chuyển xung quanh và cuối cùng gây ra sự khác biệt tiềm năng từ điểm này sang điểm khác. |
Công thức | E=W/Q Lực điện động= Công (Chia) Điện tích. | V=IRVoltage= Điện trở hiện tại (Nhiều). |
đào tạo | Lực điện động hình thành bởi tế bào điện hóa hoặc từ trường. Ngoài ra, EMF có thể hình thành ngay cả khi không có dòng điện trong mạch. | Sự khác biệt tiềm năng chỉ hình thành trong một điện trường. |
Lực điện động là gì?
Do đó, Lực điện động (EMF) gần như liên quan đến điện áp, nhưng nó là năng lượng trên mỗi đơn vị điện tích được truyền bởi một nguồn điện, chẳng hạn như pin hoặc máy phát điện. Nó hoàn toàn không phải là một khái niệm lực mà là một điện thế được tạo ra bởi một tế bào điện hóa hoặc một từ trường biến đổi.
EMF xảy ra trong một mạch có pin hoặc bất kỳ máy phát điện nào và một cực được tích điện dương trong khi cực kia được tích điện âm. Sau đó, dòng điện sẽ chạy do các điện cực có khả năng tích điện. Nó được biểu diễn là ε, và đơn vị SI là Vôn.
Ngoài ra, định luật Faraday liên quan đến emf trước tiên bằng cách phát biểu rằng sự phát triển của trường điện từ là do emf cảm ứng. Số đo Emf là tổng của điện áp nguồn và tích (Dòng điện và điện trở trong).
Về mặt số lượng, nó là tỷ lệ công thực hiện trên một đơn vị điện tích trong toàn mạch. Tuy nhiên, giá trị của emf là không đổi trong toàn bộ mạch.

Sự khác biệt tiềm năng là gì?
Ngược lại, sự khác biệt tiềm năng thực sự là sự khác biệt về điện áp giữa hai điểm trong một mạch. Nói một cách đơn giản, đó là năng lượng điện được truyền từ điểm này sang điểm khác trong một mạch điện.
Khi dòng điện chạy qua một vật dẫn, các electron tự do có xu hướng di chuyển xung quanh và chuyển động này gây ra sự chênh lệch năng lượng giữa các bộ phận, được gọi là hiệu điện thế.
Tuy nhiên, PD không phải là hằng số, vì nó xác định thước đo năng lượng giữa hai điểm bất kỳ của mạch. Nó được biểu diễn dưới dạng PD với đơn vị SI là Volts.
Giá trị của hiệu điện thế được tính bằng Định luật Ohm liên quan, trong đó hiệu điện thế bằng tích của cường độ dòng điện và điện trở của mạch.
Ngoài ra, nó cũng có thể được xác định bởi một thiết bị gọi là vôn kế. Theo phần của EMF trong trường hấp dẫn, điện trường và từ trường, Sự khác biệt tiềm năng chỉ được gợi ra khi có sự hiện diện của điện trường.

Sự khác biệt chính giữa lực điện động và sự khác biệt tiềm năng
- Lực điện động là năng lượng trên một đơn vị điện tích đạt được thông qua nguồn điện hoặc không điện của mạch. Mặt khác, Sự khác biệt tiềm năng là lượng năng lượng được tính toán truyền từ điểm này sang điểm khác trong một mạch.
- Suất điện động được cảm ứng bởi các tế bào điện hóa trong nguồn hoặc thay đổi trong từ trường. Trong khi đó, Sự khác biệt tiềm năng được gây ra bởi sự di chuyển của electron tự do qua dây dẫn giữa hai điểm.
- Suất điện động được Michael Faraday suy ra năm 1830, sau khi phân tích phản ứng hóa học của hai điện cực và chất điện phân. Trong khi Sự khác biệt tiềm năng được xác định sau tỷ lệ thành công của lý thuyết của Alessandro Volta.
- Công thức Lực điện động là Công/Điện tích (EMF=W/Q). Mặc dù vậy, công thức Tiềm năng có nguồn gốc là Điện áp=Dòng điện x Điện trở (V=IR).
- Suất điện động hình thành qua các nguồn không mang điện cũng như qua các nguồn mang điện theo dàn là hằng số trong mạch. Tuy nhiên, Sự khác biệt tiềm năng chỉ xuất hiện trong một nguồn điện và thay đổi tùy theo lượng năng lượng truyền qua.
