Có rất nhiều giao thức mạng chia sẻ tệp dựa trên hệ điều hành của chúng. Nói chính xác hơn, NFS có thể truy cập được cho tất cả mọi người và những thứ lặt vặt. Tuy nhiên, Samba chỉ giúp người dùng Windows và Unix truy cập để chia sẻ tệp qua mạng. Cung cấp các tệp máy tính cho những người dùng khác của mạng, cụ thể là chia sẻ trái phép nhạc và video qua internet, được gọi là chia sẻ tệp và đã trở nên phổ biến hiện nay.
Các nội dung chính
- NFS và Samba đều là các giao thức được sử dụng để chia sẻ tệp giữa các máy tính.
- NFS được sử dụng trong các hệ thống dựa trên Unix, trong khi Samba sử dụng các hệ thống dựa trên Windows.
- NFS nhanh hơn Samba, nhưng Samba cung cấp khả năng tương thích tốt hơn với nhiều hệ điều hành hơn.
NFS đấu với Samba
Sự khác biệt giữa NFS và samba là NFS là một giao thức hệ thống tệp mạng cho phép truy cập vào máy tính của khách hàng như thể chúng là các tệp lưu trữ cục bộ. Hơn nữa, bất kỳ ai cũng có thể thực hiện giao thức này. Mặt khác, Samba là một công cụ phần mềm dành cho người dùng Windows và Unix để chia sẻ tệp trên mạng.
NFS là viết tắt của Giao thức chia sẻ tệp mạng. Nó được phát triển bởi SunMicrosystems vào năm 1984. Khám phá của nó là cho phép người dùng truy cập mạng của khách hàng theo cách để truy cập vào tệp của họ. NFS cho phép người dùng truy cập các hệ thống tệp qua mạng giống như của họ, hơn nữa tập trung chúng trên mạng để đánh giá mở.
Trong khi đó, Samba là một công cụ mạng dành cho người dùng Windows và Unix để chuyển cũng như truy cập tệp và các dịch vụ máy in khác. Andrew Tridgell đã phát triển nó dựa trên các giao thức mạng SMB (Khối tin nhắn máy chủ) và CIPS (Hệ thống tệp Internet chung). Ngoài ra, nó thường được sử dụng để thiết lập các tệp từ Windows trên hệ thống Linux.
Bảng so sánh
Các thông số so sánh | NFS | Samba |
---|---|---|
Ý nghĩa | Hệ thống tệp mạng là một tiêu chuẩn mở để truy cập các tệp trên mạng cho phép mọi người vận hành giao thức như chia sẻ, phát video, ghi, v.v. | Samba hoạt động như một trung gian, chẳng hạn như nó là một phần mềm giúp người dùng truy cập vào các tệp của khách hàng của họ thông qua mạng, bên cạnh các dịch vụ chia sẻ máy in. |
Giới thiệu | Network File System lần đầu tiên ra mắt vào năm 1980, dưới sự phát triển của Sun Microsystems. | Samba được bắt đầu bởi Tridgell, theo các giao thức SMB, vào năm 1992. |
Nền tảng | NFS đã được người dùng truy cập thông qua Hệ điều hành Unix, Apple macOS, Linus, Microsoft Windows và nhiều mạng máy tính khác. | Samba hỗ trợ các hệ thống Windows, Linux và Unix. |
Các phiên bản | NFS có bốn phiên bản; NFSv2, NFSv3, NFSv4 và một tại thời điểm phát triển. | Samba có hơn 3.0 phiên bản, bắt đầu từ số 4.14 đến XNUMX. Mặc dù vậy, ba phiên bản vẫn đang được phát hành. |
Lợi ích | NFS là một hệ thống giao thức chi phí thấp. NFS cho phép người dùng truy cập trên máy tính của khách hàng, giống như truy cập các tệp cục bộ. NFS là một tiêu chuẩn mở, giúp giảm dung lượng lưu trữ của các tệp bị xen kẽ và tăng cường bảo mật. | Nó là công cụ chia sẻ tốt nhất cho người dùng hệ thống Windows và Unix. Nó được coi là một công cụ được các nhóm kỹ thuật công nhận để chia sẻ hệ thống tệp và máy in giữa máy chủ và máy khách. Hơn nữa, đây là phần mềm miễn phí với khả năng triển khai xác thực các tệp qua mạng. |
NFS là gì?
Hệ thống tệp mạng là một giao thức hỗ trợ người dùng truy cập tệp của khách hàng của họ trên mạng, chẳng hạn như họ truy cập tệp của họ. Ban đầu, nó được phát triển vào những năm 80 bởi Sun Microsystems để cho phép mọi người thực hiện giao thức. Các cơ chế của nó bao gồm quyền truy cập vào hệ thống tệp của XYZ qua mạng. Ngoài ra, đây là một trong một số tiêu chuẩn hệ thống tệp phân tán cho lưu trữ gắn mạng (NAS). Hiện tại, có bốn phiên bản NFS, chẳng hạn như NFSv2, NFSv3 và NFSv4.
Ban đầu, công ty Sun sử dụng phiên bản 1 cho các thử nghiệm nội bộ. Mặt khác, NFS v2 sử dụng cả TCP và UDP các giao thức, trong khi UDP là điều kiện tiên quyết cho các kết nối mạng không trạng thái giữa các máy khách và máy chủ.
Thứ hai, NFS v3 hỗ trợ kích thước tệp 64 bit và offset, cho phép khách hàng truy cập hơn 2Gb dữ liệu tệp. Ngoài ra, nó sử dụng cả giao thức UDP và TCP tương tự như giao thức trước. Cuối cùng, NFS v4 hoạt động thông qua tường lửa và trên Internet, không còn yêu cầu dịch vụ, hỗ trợ ACL và sử dụng các hoạt động có trạng thái. Tuy nhiên, nó chỉ sử dụng giao thức TCP.
Nó được sử dụng chủ yếu trong các hệ điều hành Unix, macOS của Apple, Linux và các hệ điều hành khác.
Samba là gì?
Mặt khác, Samba là một phần mềm cung cấp cho người dùng truyền tệp và dịch vụ in qua mạng. Ban đầu nó được phát triển bởi Andrew Tridgell vào năm 1992, dựa trên giao thức mạng SBM. Nhiều máy khách hệ thống giống như Microsoft Windows và Unix sử dụng nó. Nhãn hiệu của nó là từ SBM, trong khi tên bắt nguồn từ lệnh Unix grep.
Nó được viết bằng ngôn ngữ C và Python, và hơn 5 phiên bản đã được phát hành. Nó chạy trên các hệ thống Unix, cho phép hệ thống Unix chuyển sang Windows neXNUMXwor mà không gặp trở ngại. Nó bao gồm các giao thức và dịch vụ như NetBIOS, SBM, WINS, SAM, NTLM, Và như vậy.
Nó chỉ sử dụng Hệ điều hành OS/2 và giao thức SBM để hỗ trợ máy khách-máy chủ, do đó chia sẻ hoặc đánh giá tệp, chia sẻ máy in và các dịch vụ khác. Nó có sẵn trên PC cũng như các thiết bị phần cứng khác ngoài Windows.
Sự khác biệt chính giữa NFS và Samba
- NFS là giao thức chia sẻ tệp cho phép người dùng truy cập tệp của khách hàng của họ thông qua mạng, trong khi Samba là phần mềm không chỉ cho phép chia sẻ tệp mà còn chia sẻ máy in.
- NFS được sử dụng rộng rãi giữa các nền tảng Unix cũng như Linux, trong khi Samba có thể được truy cập bởi người dùng từ các mạng khác nhau, chẳng hạn như Unix đến Windows hoặc trong mạng của nó.
- NFS chia sẻ tất cả các loại hệ thống tệp trên mạng. Trong khi đó, Samba chỉ có thể chia sẻ các tệp Linux với mạng Windows.
- Mặc dù Samba không phải là một giao thức đã được chứng minh trong thế giới kỹ thuật, nhưng NFS thì không.
- NFS chủ yếu sử dụng giao thức UDP để cung cấp kết nối mạng không trạng thái giữa máy khách và máy chủ. Mặt khác, Samba tuân theo giao thức SMB (Khối tin nhắn máy chủ) cho chức năng của nó.