Tê tê vẫn là loài được buôn bán nhiều nhất trên hành tinh, với dân số ước tính chỉ khoảng một triệu con.
Mặc dù thú ăn kiến hiện không có nguy cơ tuyệt chủng, nhưng việc mất môi trường sống và nạn săn trộm đã dẫn đến sự tuyệt chủng của một phần lớn quần thể của chúng.
Mặc dù tê tê và thú ăn kiến có nhiều điểm tương đồng, chúng cũng có một số điểm khác biệt. Nạn săn trộm để buôn bán động vật hoang dã bất hợp pháp và sự suy thoái môi trường sống đã khiến những loài động vật tuyệt vời này trở thành một trong những loài động vật có vú có nguy cơ tuyệt chủng nhất thế giới.
Các nội dung chính
- Tê tê là động vật có vú có vảy ở châu Á và châu Phi, trong khi thú ăn kiến là động vật có vú không răng ở Trung và Nam Mỹ.
- Tê tê có vảy bảo vệ, trong khi thú ăn kiến có lưỡi dài để bắt côn trùng.
- Tê tê đang bị đe dọa do săn bắn và mất môi trường sống, trong khi thú ăn kiến không được coi là có nguy cơ tuyệt chủng.
Tê tê vs Thú ăn kiến
Tê tê là loài động vật có vú nhỏ, được bao phủ bởi lớp vảy với chiếc lưỡi dài và dính, chúng dùng để bắt kiến và mối để làm thức ăn. Thú ăn kiến chỉ được tìm thấy ở châu Mỹ và được biết đến với cái mõm dài, thon và lưỡi mà chúng dùng để ăn kiến và mối.

Tê tê được bao phủ bởi một mô hình đặc biệt gồm những vảy xếp chồng lên nhau. Những sinh vật này có chiếc lưỡi dài và dính dùng để nuốt chửng kiến và mối, đồng thời chúng có thể nhanh chóng cuộn mình thành một quả bóng chặt nếu cảm thấy bị đe dọa.
Tê tê được tìm thấy ở châu Á và châu Phi trong tám loài khác nhau.
Thú ăn kiến là sinh vật có răng cưa, nghĩa là chúng không có răng. Mặt khác, chiếc lưỡi lớn của chúng thừa sức tiêu thụ 35,000 con kiến và mối mà chúng ăn hàng ngày.
Thú ăn kiến khổng lồ là loài lớn nhất trong bốn loài thú ăn kiến, có kích thước XNUMX feet tính từ đầu mũi đến cuối đuôi.
Bảng so sánh
Các thông số so sánh | Con tê tê | Thú ăn kiến |
---|---|---|
từng loài | Thuộc chi Manis trong họ Minidae | được chia thành hai bộ là Vermilingua và Pilosa |
Habitat | Được tìm thấy ở thảo nguyên đồng cỏ, rừng nhiệt đới và ngập nước. | Được tìm thấy trong rừng nhiệt đới, thảo nguyên, rừng nhiệt đới khô và rừng nhiệt đới. |
phân phát | Được tìm thấy trên khắp châu Á và trong sa mạc Sahara ở phía nam | Được tìm thấy ở miền nam Mexico, Trung Mỹ, Uruguay và miền đông Brazil. |
Fur | Không có lông. | Toàn thân được bao phủ bởi lớp lông dài. |
Cân | Vảy có mặt trên khắp cơ thể. | Không có vảy. |
Là gì Con tê tê?
Những loài động vật ăn côn trùng quý hiếm này có vảy chồng lên nhau chắc chắn và có thể được tìm thấy trên khắp châu Á và phía nam sa mạc Sahara.
Tê tê được chia thành tám loài, tất cả đều thuộc chi Manis, một phần của họ Minidae. Trong bộ Pholidota, đây là họ đơn.
Trung Quốc tê tê, tê tê Sunda, tê tê Pawalan và tê tê Ấn Độ đều là các loài tê tê châu Á.
Tê tê bụng trắng, tê tê khổng lồ, tê tê đất và tê tê bụng đen đều là các loài tê tê châu Phi. Tê tê có kích thước từ 1.6 đến 33 kg, có lớp vảy sừng chồng lên nhau bao phủ toàn thân.
Mặt khác, mặt dưới không có vảy và được bao phủ bởi một ít lông. Sự khác biệt duy nhất giữa tê tê châu Á và tê tê châu Phi là tê tê châu Á có lông ở giữa các vảy của chúng.
Tê tê có lưỡi dính rất lý tưởng để hút kiến, hàm không có răng và đầu hình nón.
Lưỡi của chúng được gắn xung quanh cặp xương sườn và xương chậu cuối cùng, và khi mở rộng hoàn toàn, chúng có thể bằng chiều dài của cơ thể và đầu của con vật. Chúng có các chi cứng cáp với năm ngón chân trên mỗi bàn chân, thích hợp cho việc đào bới.
Ba móng vuốt cong và dài ở bàn chân trước của chúng được dùng để đào đường hầm ngủ và làm tổ cũng như phá tổ mối.
Chúng cũng có thể bơi và leo trèo, với một số loài xuất sắc cả hai. Chúng là những sinh vật cực kỳ mỏng manh, sống về đêm và sống đơn độc.

Thú ăn kiến là gì?
Loài động vật có vú này ăn kiến và mối và có thể được tìm thấy ở đông nam Mexico, Trung Mỹ, Uruguay và miền đông Brazil.
Chúng thuộc bộ Vermilingua và Pilosa và có họ hàng gần với con lười. Các loài chiết xuất bao gồm thú ăn kiến khổng lồ, tamandua phía bắc, thú ăn kiến mượt và tamandua phía nam.
Chúng có lưỡi mỏng và mõm mở rộng với hàm hình ống, chúng dùng để xé và mở các tổ mối như một chiến lược phòng thủ. Chúng cũng có một lớp lông dày bảo vệ chúng khỏi côn trùng.
Mặc dù tất cả chúng đều ăn côn trùng nhỏ, nhưng mỗi loài đều có sở thích riêng. Các loài nhỏ ăn côn trùng sống trên cành cây nhỏ, trong khi các loài khổng lồ có thể lọt vào lưới côn trùng trên cạn.
Hàng ngàn cái móc nhỏ gọi là nhú dạng sợi bao phủ lưỡi côn trùng để giữ chúng lại với nhau. Thú ăn kiến có thể được tìm thấy trong nhiều môi trường khác nhau, bao gồm rừng nhiệt đới, thảo nguyên, rừng nhiệt đới khô và rừng nhiệt đới.
Chúng là những sinh vật sống đơn độc với khứu giác nhạy bén nhưng tầm nhìn hạn chế.
Thú ăn kiến có nhiệt độ cơ thể thấp nhất so với bất kỳ động vật sống trên cạn nào, vào khoảng 89.6 độ F.
Điều này rất có thể là do thực phẩm chính trong chế độ ăn uống của họ có ít hoặc không có giá trị dinh dưỡng hoặc calo mặc dù tiêu thụ một lượng lớn.

Sự khác biệt chính giữa tê tê và thú ăn kiến
- Tê tê thuộc chi Manis trong họ Minidae. Mặt khác, thú ăn kiến được chia thành hai bộ: Vermilingua và Pilosa.
- Tê tê có thể được tìm thấy ở đồng cỏ thảo nguyên, rừng nhiệt đới và ngập nước, cũng như môi trường nhiệt đới đã được dọn sạch và phát triển. Ngược lại, Thú ăn kiến sống trong rừng nhiệt đới, thảo nguyên, rừng nhiệt đới khô và rừng nhiệt đới.
- Tê tê có thể được tìm thấy trên khắp châu Á và trong sa mạc Sahara ở phía nam. Ngược lại, Thú ăn kiến được tìm thấy ở miền nam Mexico, Trung Mỹ, Uruguay và miền đông Brazil.
- Không giống như tê tê có lớp lông mỏng ở mặt dưới, thú ăn kiến có bộ lông dài giúp bảo vệ chúng khỏi sự tấn công của côn trùng.
- Tê tê có vảy trên cơ thể, nhưng thú ăn kiến thì không.
