Thuật ngữ “tự hiện thực hóa” đề cập đến hành động phát huy hết tiềm năng của một người. Tự thực hiện là một thuật ngữ được sử dụng thay thế cho việc tự thực hiện.
Tuy nhiên, Lòng tự trọng là sự đánh giá chủ quan về tổng giá trị của một cá nhân. Lòng tự trọng và giá trị bản thân là hai từ đồng nghĩa với từ lòng tự trọng.
Các nội dung chính
- Tự hiện thực hóa là nhận ra tiềm năng đầy đủ của một người và đạt được các mục tiêu cá nhân, trong khi Lòng tự trọng là đánh giá giá trị và giá trị của một người.
- Tự hiện thực hóa tập trung nhiều hơn vào sự phát triển và hoàn thiện cá nhân, trong khi Lòng tự trọng tập trung nhiều hơn vào giá trị bản thân và sự tự tin.
- Theo Tháp nhu cầu của Maslow, Tự hoàn thiện là nhu cầu cấp cao hơn, trong khi Lòng tự trọng là nhu cầu cấp thấp hơn.
Tự hiện thực hóa so với lòng tự trọng
Tự thực hiện là một quá trình năng động hơn bao gồm sự tăng trưởng và phát triển liên tục trong suốt cuộc đời của một cá nhân. Lòng tự trọng là một đặc điểm tương đối ổn định, có thể dao động theo thời gian dựa trên nhiều yếu tố khác nhau như kinh nghiệm, so sánh xã hội và phản hồi từ người khác.

Khái niệm tự hiện thực hóa được sử dụng với ý nghĩa rộng hơn trong cách tiếp cận ngày nay hoặc trong bối cảnh hiện tại, để định nghĩa nó là tiềm năng hoàn chỉnh mà con người đạt được với sự hỗ trợ của các đặc điểm tính cách khác như lòng quyết tâm và ý chí mạnh mẽ.
Kurt Goldstein, người đã tạo ra cụm từ và phát triển phân tích khái niệm về tự thực hiện, đã định nghĩa nó là điểm đến cuối cùng đạt được hoặc mục tiêu mà tất cả các sinh vật sống đặt ra thông qua việc nhận ra khả năng của chúng.
Lòng tự trọng là sự đánh giá chủ quan về tổng giá trị của một ai đó. Lòng tự trọng và giá trị bản thân là hai tính từ được sử dụng làm từ đồng nghĩa với thuật ngữ “lòng tự trọng”.
Lòng tự trọng lần đầu tiên được bắt đầu như một tỷ lệ bởi William James, người đã đặt ra từ này. Tỷ lệ thành công trên dự đoán được tính toán. Trong thế giới ngày nay, lòng tự trọng được mô tả là cuộc chiến của một người để đạt được ý thức về giá trị bản thân.
Bảng so sánh
Các thông số so sánh | Tự thực tế | Lòng tự trọng |
---|---|---|
Lần dùng đầu tiên | Kurt Goldstein, 1939. | William James, 1890 |
Khái niệm ban đầu | Đạt được mục tiêu cuối cùng với tất cả khả năng. | thành công: giả vờ. |
khái niệm hiện đại | Đạt được mục tiêu bằng cách đạt được tiềm năng đầy đủ | Cảm thấy giá trị bản thân. |
Theo Maslow | Vị trí cao nhất | Bên dưới Tự hiện thực hóa, ở cấp độ thứ tư. |
Các điều khoản khác | Tự thực hiện | Giá trị bản thân, lòng tự trọng |
Tự thực hiện là gì?
Thuật ngữ tự hiện thực hóa đề cập đến khả năng của một người để đạt được tiềm năng đầy đủ của mình. Tự thực hiện là một thuật ngữ thường được thay thế bằng tự thực hiện.
Tự hoàn thiện được xếp hạng đầu tiên trong Tháp nhu cầu của Maslow. Kurt Goldstein là người đầu tiên phát minh ra thuật ngữ “Tự hiện thực hóa” vào năm 1939.
Khái niệm tự hiện thực hóa được sử dụng theo nghĩa rộng hơn trong cách tiếp cận ngày nay hoặc trong bối cảnh hiện tại, để định nghĩa là tiềm năng hoàn chỉnh mà các cá nhân đạt được với sự hỗ trợ của các đặc điểm tính cách khác như quyết tâm và ý chí mạnh mẽ.
Cụm từ “tự hiện thực hóa” được đặt ra bởi Kurt Goldstein, người đã định nghĩa nó là “đích đến cuối cùng đạt được hoặc mục tiêu mà mỗi người sống đặt ra thông qua việc hiện thực hóa những khả năng mà họ sở hữu”.
Những người tự hiện thực hóa nhận thức được tiềm năng bên trong của họ, có những ý tưởng sáng tạo và có mối liên kết giữa các cá nhân mạnh mẽ. Hơn nữa, họ có một cái nhìn tích cực về thế giới.

Lòng tự trọng là gì?
Thuật ngữ “lòng tự trọng” dùng để chỉ sự đánh giá chủ quan về giá trị tổng thể của một cá nhân. Lòng tự trọng và giá trị bản thân là hai từ được sử dụng làm từ đồng nghĩa với cụm từ lòng tự trọng.
Theo lý thuyết “Thứ bậc nhu cầu” của Maslow, lòng tự trọng chiếm vị trí cấp thứ tư bên dưới khả năng tự hiện thực hóa bản thân, phân loại lòng tự trọng là một trong những nhu cầu được tôn trọng chính.
Năm 1890, cụm từ “lòng tự trọng” lần đầu tiên được đặt ra. William James, mặt khác, là người bắt đầu nó. Cụm từ “lòng tự trọng” được đặt ra bởi William James, người đã diễn đạt nó như một tỷ lệ.
Tỷ lệ thành công trên giả định được tính toán. Trong thế giới ngày nay, lòng tự trọng được mô tả là cuộc chiến của một cá nhân để đạt được ý thức về giá trị bản thân.
Những người đã làm chủ phẩm chất của lòng tự trọng được cho là tự hào và hài lòng với tất cả những thành tựu của họ, hoàn toàn tin tưởng vào bản thân rằng họ có thể đạt được bất cứ điều gì họ mong muốn và cực kỳ nhạy cảm với cảm xúc của người khác, đặc biệt là về nhu cầu .

Sự khác biệt chính giữa Tự hiện thực hóa và Lòng tự trọng
- Khái niệm tự hiện thực hóa đề cập đến thực tế là hoàn thành tiềm năng của một cá nhân. Mặt khác, lòng tự trọng đề cập đến việc đánh giá khách quan giá trị tổng thể của một cá nhân.
- Thuật ngữ “Tự hiện thực hóa” được đặt ra lần đầu tiên vào năm 1939 bởi Kurt Goldstein. Mặt khác, thuật ngữ “lòng tự trọng” được đưa vào sử dụng lần đầu tiên vào năm 1890. Tuy nhiên, nó được khởi xướng bởi William James.
- Kurt Goldstein, người đã đặt ra thuật ngữ và phân tích khái niệm về tự thực hiện, đã diễn đạt nó như là đích đến cuối cùng đạt được hoặc mục tiêu mà mọi sinh vật đặt ra bằng cách hiện thực hóa các khả năng mà họ sở hữu. Mặt khác, William James, người đã đưa ra khái niệm về thuật ngữ “lòng tự trọng”, đã diễn đạt nó dưới dạng một tỷ lệ. Tỷ lệ được lấy từ thành công để giả vờ.
- Theo cách tiếp cận của thời hiện đại, hoặc kịch bản hiện tại, khái niệm tự hiện thực hóa được sử dụng theo nghĩa rộng hơn để định nghĩa là toàn bộ tiềm năng mà con người đạt được với sự trợ giúp của các đặc điểm tính cách khác như quyết tâm và ý chí mạnh mẽ. Mặt khác, lòng tự trọng trong cách tiếp cận thế giới hiện đại được định nghĩa là cuộc đấu tranh của một cá nhân để có được cảm giác về giá trị bản thân. Hiểu được giá trị của bản thân, không làm điều gì thấp hơn các nguyên tắc và tiêu chuẩn do chính bạn đặt ra, đó là định nghĩa của lòng tự trọng trong thời đại ngày nay.
- Theo Hệ thống phân cấp nhu cầu do Maslow đưa ra, khái niệm tự thực hiện được đặt ở cấp cao nhất hoặc cấp cao nhất. Mặt khác, Theo lý thuyết “Thứ bậc nhu cầu” do Maslow đưa ra, lòng tự trọng chiếm một vị trí bên dưới khả năng tự hiện thực hóa ở cấp độ thứ tư xác định lòng tự trọng là một trong những nhu cầu được tôn trọng quan trọng.
- Những người tự thực hiện biết rõ tiềm năng bên trong của mình, sở hữu những ý tưởng sáng tạo và có mối liên kết chặt chẽ với người khác. Hơn nữa, họ cũng có quan điểm lạc quan về thế giới. Mặt khác, những người làm chủ được phẩm chất của lòng tự trọng được cho là tự hào và hài lòng với mọi việc lớn nhỏ mà họ làm, đồng thời họ có niềm tin và niềm tin tối đa vào bản thân rằng họ có thể đạt được bất cứ thứ gì họ muốn và khá nhạy cảm về cảm giác dành cho người khác và đặc biệt là khi có nhu cầu.
- Một trong những từ được sử dụng thay thế cho việc tự thực hiện là tự thực hiện. Mặt khác, một số từ được sử dụng làm từ đồng nghĩa với từ lòng tự trọng là lòng tự trọng và giá trị bản thân.
