Dược phẩm là thuốc dùng để chữa bệnh, chữa bệnh. Từ thời cổ đại đến thế giới hiện đại, họ đã chữa khỏi cho vô số bệnh nhân.
Các loại thuốc hoặc thuốc bên dưới nó được phân thành nhiều loại dựa trên công dụng, cơ chế nhắm mục tiêu, v.v.
Những loại thuốc hoặc thuốc này có thể có nguồn gốc tự nhiên hoặc được điều chế bằng hóa chất tùy theo vị trí tác dụng và tác dụng mạnh hay yếu của chúng.
Các nội dung chính
- Ephedrine là một alkaloid tự nhiên được tìm thấy trong thực vật, trong khi pseudoephedrine là một hợp chất tổng hợp được sử dụng làm thuốc thông mũi.
- Ephedrine là một chất kích thích và có thể được sử dụng để giảm cân và như một loại thuốc tăng cường hiệu suất, trong khi pseudoephedrine được sử dụng để giảm nghẹt mũi.
- Ephedrine là một chất được kiểm soát cần có đơn thuốc, trong khi pseudoephedrine không cần kê đơn.
Ephedrine vs Pseudoephedrine
Theo công thức Wedge và Dash, nhóm hydroxyl (-OH) có trong cấu trúc phân tử của Ephedrine và Pseudoephedrine là khác nhau. Trong ephedrin, nhóm hydroxyl (-OH) hiện diện về phía đầu đọc (trong mặt phẳng), trong khi nhóm hydroxyl (-OH) hiện diện trong pseudoephedrin cách xa đầu đọc (ngoài mặt phẳng). Do đó, chúng còn được gọi là đồng phân cis và trans của nhau.

Ephedrine là một loại dược phẩm truyền thống của Trung Quốc được sử dụng để chữa bệnh hen suyễn và viêm phế quản của bệnh nhân trong nhiều thế kỷ. Ephedrin là thuốc giãn phế quản và có hiệu quả cao.
Nó cũng giúp tăng huyết áp của bệnh nhân. Nó hoạt động như một loại thuốc gây mê.
Thuốc có thể được dùng bằng đường uống hoặc tiêm vào cơ, tĩnh mạch hoặc dưới da.
Pseudoephedrine cũng là một loại thuốc truyền thống của Trung Quốc đã được sử dụng để chữa bệnh hen suyễn và viêm phế quản trong nhiều thế kỷ. Pseudoephedrine cũng là thuốc giãn phế quản và ít hiệu quả hơn.
Nó cũng ít hiệu quả hơn trong việc giúp tăng huyết áp của bệnh nhân. Nó có thể được sử dụng cho nghẹt mũi.
Bảng so sánh
Các thông số so sánh | ephedrine | Pseudoephedrin |
---|---|---|
Cấu hình nhóm hydroxyl (-OH) | Nhóm Hydroxyl có mặt đối với người đọc. | Nhóm hydroxyl có mặt cho người đọc. |
Cấu hình RIS | 1R, 2S | 1S, 2S |
Hoạt động thụ thể adrenergic | Ephedrine tác động trực tiếp lên các thụ thể adrenergic với tác dụng mạnh. | Pseudoephedrine tác động trực tiếp lên các thụ thể adrenergic với tác dụng yếu. |
Hoạt động gián tiếp | Ephedrine cũng hoạt động bằng cách thay thế norepinephrine từ các túi lưu trữ. | Thuốc này hoạt động bằng cách đẩy norepinephrine ra khỏi các túi dự trữ một cách gián tiếp. |
Hoạt động hóa học | Hỗn hợp tác dụng cường giao cảm amin | Amin cường giao cảm tác dụng gián tiếp. |
Sử dụng lâm sàng | Thuốc hạ huyết áp gây mê | Thuốc thông mũi |
Ephedrin là gì?
Ephedrine là một loại thuốc truyền thống của Trung Quốc để chữa bệnh hen suyễn và viêm phế quản trong nhiều thế kỷ. Ephedrine là một chất kích thích và được sử dụng để tăng huyết áp trong khi gây tê tủy sống.
Đôi khi người ta thấy rằng loại thuốc này đang được sử dụng để điều trị chứng ngủ rũ (chu kỳ mộng du) và béo phì, nhưng nó không phải là loại thuốc được ưu tiên cho những trường hợp tương tự.
Thuốc ephedrin có trong loài thực vật tên là “Ephedra” Nó là một loại hạt trần. Nó được phân lập lần đầu tiên vào năm 1885 và thuốc được tung ra thị trường vào năm 1926 để sử dụng cho mục đích thương mại.
Thuốc đã được coi là thuốc gốc và được liệt kê trong Danh sách các loại thuốc thiết yếu của Tổ chức Y tế Thế giới.
Công thức cấu tạo của thuốc là C10H15NO. Theo công thức Wedge và Dash, nhóm hydroxyl (-OH) có trong phân tử hướng về phía đầu đọc, có nghĩa là nó nằm trong mặt phẳng.
Việc uống thuốc có thể được thực hiện bằng cách tiêm vào cơ, tĩnh mạch hoặc dưới da. Tác dụng của thuốc nếu uống kéo dài đến 4 giờ, còn tiêm thì kéo dài đến 1 giờ.
Một số tác dụng phụ được liệt kê, thường được quan sát thấy ở bệnh nhân, là – ảo giác, lo lắng, rối loạn giấc ngủ, nhức đầu, tăng huyết áp, chán ăn, v.v.
Pseudoephedrin là gì?
Pseudoephedrine là một loại thuốc truyền thống được sử dụng ở Trung Quốc để điều trị bệnh hen suyễn và viêm phế quản trong nhiều thế kỷ. Nó cũng là một chất kích thích và ít hiệu quả hơn trong việc làm tăng huyết áp của bệnh nhân.
Thuốc này cũng là thuốc giãn phế quản. Thuốc pseudoephedrine được dùng như thuốc thông mũi để điều trị xoang và thuốc thúc đẩy sự tỉnh táo (tăng sự tỉnh táo).
Người ta cũng phân lập được ephedrin từ cùng một loại cây như một alkaloid. Nhưng trong Cây ma hoàng Vulgaris, thuốc có mặt cùng với ephedrine, nhưng phần lớn thuốc được sản xuất thương mại.
Thuốc được sản xuất với sự trợ giúp của men. Điều này được thực hiện bằng cách lên men men với dextrose với sự có mặt của benzaldehyde.
Và sau đó, sản phẩm cuối cùng được hình thành thông qua quá trình khử hóa. Thuốc được sản xuất với số lượng lớn ở Ấn Độ và Trung Quốc, nơi có điều kiện kinh tế và công nghiệp thuận lợi để xuất khẩu hàng loạt.
Công thức phân tử của thuốc Pseudoephedrine giống như ephedrine, nghĩa là C10H15NO. Nhóm hydroxyl (-OH) có trong phân tử ở xa đầu đọc, có nghĩa là nó nằm ngoài mặt phẳng.
Điều này được giải thích dựa trên công thức Wedge and Dash. Do đó, pseudoephedrine và ephedrine được coi là cis và biến đổi của nhau.
Sự khác biệt chính giữa Ephedrine và Pseudoephedrine
- Trong cấu hình của Ephedrin, nhóm hydroxyl (-OH) có trong nó hướng về phía người đọc, trong khi nhóm hydroxyl (-OH) của Pseudoephedrin lại có mặt ở xa người đọc. Cấu hình này dựa trên công thức Wedge và Dash.
- Cấu hình RIS của ephedrine là 1R, 2S, trong khi Cấu hình RIS của pseudoephedrine là 1S, 2S.
- Ephedrine được cho là trực tiếp hành động trên adrenergic các thụ thể có tác dụng mạnh, trong khi Pseudoephedrin cũng tác động trực tiếp lên các thụ thể adrenergic nhưng tác dụng nhẹ.
- Ephedrine tác động trực tiếp và đẩy norepinephrine ra khỏi túi dự trữ, trong khi Pseudoephedrine cũng tác động và đẩy norepinephrine ra khỏi túi dự trữ, nhưng cách tác động là gián tiếp.
- Ephedrine là một amin giao cảm tác dụng hỗn hợp, trong khi Pseudoephedrine là một amin giao cảm tác dụng gián tiếp.
- Công dụng lâm sàng của Ephedrine là nó là thuốc hạ huyết áp gây mê, trong khi Pseudoephedrine là thuốc thông mũi.
