Nữ quyền và bình đẳng là hai thuật ngữ liên quan, đôi khi bị hiểu nhầm.
Những người theo chủ nghĩa nữ quyền và bình đẳng ủng hộ việc đối xử bình đẳng giữa tất cả mọi người, ngay cả khi sự khác biệt và khác biệt giữa nam và nữ dường như được các nhà nữ quyền nhấn mạnh hơn. Ngược lại, những người theo chủ nghĩa bình đẳng có cách tiếp cận toàn diện hơn, phổ quát hơn đối với vấn đề này.
Các nhà hoạt động nữ quyền cho rằng phụ nữ tệ hơn nam giới và đang đấu tranh để phụ nữ có được những quyền và đặc quyền giống như nam giới.
Các nội dung chính
- Nữ quyền và Bình đẳng là hai hệ tư tưởng nhằm thúc đẩy bình đẳng giới, nhưng chúng có cách tiếp cận và mục tiêu khác nhau.
- Nữ quyền tìm cách giải quyết sự phân biệt đối xử và áp bức lịch sử và có hệ thống đối với phụ nữ bởi nam giới và các thể chế gia trưởng, ủng hộ quyền và trao quyền cho phụ nữ.
- Mặt khác, Chủ nghĩa bình đẳng nhấn mạnh sự bình đẳng của mọi cá nhân, bất kể giới tính, chủng tộc hay bất kỳ đặc điểm nào khác, phấn đấu vì một xã hội nơi mọi người đều có cơ hội và đối xử như nhau.
Nữ quyền vs bình đẳng
Sự khác biệt giữa chủ nghĩa nữ quyền và chủ nghĩa bình đẳng là chủ nghĩa nữ quyền là một phong trào nữ quyền cam kết vì quyền của phụ nữ. Phụ nữ và trẻ em gái nên có quyền và đặc quyền bình đẳng như nam giới trong các cộng đồng toàn diện và công bằng hơn.
Do đó, bình đẳng hỗ trợ các cộng đồng công bằng và bình đẳng, trong đó chúng ta có quyền bình đẳng.
Mặc dù hai phong trào có một số điểm tương đồng quan trọng, nhưng chúng rất khác nhau: nữ quyền, là một yêu cầu rõ ràng để bảo vệ quyền của phụ nữ; bình đẳng được nhìn nhận theo cùng một cách đối với tất cả mọi người, ủng hộ bình đẳng bất kể giới tính, dân tộc, tuổi tác hoặc đặc điểm thể chất.

Chủ nghĩa nữ quyền là một phạm vi nhằm xác định và phát triển sự bình đẳng về chính trị, kinh tế, cá nhân và xã hội của hai giới trong các phong trào xã hội, phong trào chính trị và triết học.
Chủ nghĩa nữ quyền bao gồm ý tưởng rằng các nền văn hóa ưu tiên quan điểm của nam giới và phụ nữ bị trừng phạt bất công trong các xã hội như vậy.
Thái độ chống lại giới tính và triển vọng giáo dục, nghề nghiệp và giao tiếp giữa phụ nữ bình đẳng với nam giới là những nỗ lực để cải cách.
Chủ nghĩa bình đẳng, với tư cách là một triết lý toàn diện hơn, cũng hướng tới mục tiêu như vậy. Nó thúc đẩy sự bình đẳng vốn có của con người và do đó, sự bình đẳng của tư bản.
Khái niệm về sự bình đẳng đã phổ biến lịch sử của nam tính và tình huynh đệ. Nó là trụ cột cơ bản của nhiều Hiến pháp cho đến tận ngày nay.
Triết lý được nhấn mạnh là “tất cả mọi người đều bình đẳng”, dù là trong Cách mạng Pháp hay Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ năm 1776.
Bảng so sánh
Các thông số so sánh | nữ quyền | bình đẳng |
---|---|---|
Ý chính | Chủ nghĩa cộng sản, dân chủ hợp pháp, bình đẳng về cơ hội, chủ nghĩa quân bình Kitô giáo, bình đẳng dân sự, bình đẳng giới và bình đẳng chủng tộc. | Chủ nghĩa cộng sản, dân chủ hợp pháp, bình đẳng về cơ hội, chủ nghĩa quân bình Kitô giáo, bình đẳng dân sự, bình đẳng giới, bình đẳng chủng tộc. |
Người sáng lập | Charles Fourier là người sáng lập ra chủ nghĩa nữ quyền. | John Locke là người sáng lập bình đẳng. |
Thành viên đầu tiên | Christine de Pizan là nhà nữ quyền đầu tiên trên thế giới. | Amon là người bình đẳng đầu tiên trên thế giới. |
Các loại | Chủ nghĩa nữ quyền tự do, chủ nghĩa nữ quyền Mác-xít và chủ nghĩa nữ quyền quân phiệt | Chủ nghĩa bình đẳng, với tư cách là một ý tưởng rộng lớn hơn, cũng hướng tới mục tiêu như vậy. Nó thúc đẩy sự bình đẳng vốn có của con người và do đó, sự bình đẳng của tư bản. Khái niệm về sự bình đẳng đã phổ biến lịch sử của nam tính và tình huynh đệ. Nó cũng là xương sống của nhiều bản Hiến pháp ngày nay. |
Quyền | Quyền phụ nữ | Quyền cho tất cả mọi người |
Nữ quyền là gì?
Trong những năm qua, phong trào phụ nữ đã phát triển thành nguồn cảm hứng cho phụ nữ trên toàn thế giới và thúc đẩy các cơ hội bình đẳng cho nam giới và phụ nữ.
Ở hầu hết các quốc gia, phụ nữ tiếp tục đối mặt với những thách thức về giới so với nam giới và vẫn được ưu tiên về nhiều mặt.
Khoảng cách giới tính đã thu hẹp lại ở hầu hết các nước phát triển trong vài thập kỷ qua. Tuy nhiên, một số cộng đồng trên toàn thế giới vẫn thúc đẩy văn hóa nam giới thống trị, làm giảm cơ hội cho phụ nữ và nam giới, đặc biệt là trong giáo dục và nơi làm việc.
Chênh lệch tiền lương đáng kể giữa hai giới tồn tại ngay cả ở hầu hết các nước đang phát triển, và phụ nữ tiếp tục phải đối mặt với những vấn đề nghiêm trọng về chế độ nghỉ thai sản có lương và chăm sóc trong và trong khi sinh.
Nhiều vấn đề trong số này – và nhiều vấn đề khác – đã góp phần vào sự trỗi dậy của cái gọi là cuộc cách mạng nữ quyền, thúc đẩy công bằng xã hội và giải quyết một số đặc điểm chính của phân biệt giới tính và bất bình đẳng.
Họ phản đối sự khách quan hóa trên cơ thể phụ nữ và biện hộ bình đẳng về lương tâm, nhấn mạnh giá trị của việc đối xử đầy đủ và luật không hạn chế phá thai.
Họ đang đấu tranh để được trả lương công bằng và cơ hội bình đẳng.
Trong khi phong trào phụ nữ đã tập hợp một số lượng đáng kể những người theo dõi trong những năm qua, một số nhà phê bình cho rằng phụ nữ ưu việt hơn nam giới và họ không nên muốn bình đẳng mà chỉ muốn phụ nữ thống trị.

Chủ nghĩa bình đẳng là gì?
Cả hai quyền bình đẳng, không phân biệt giới tính, màu da, giới tính, tuổi tác hoặc khả năng thể chất, đều được thúc đẩy bởi những người bình đẳng.
Chúng không được thành lập dựa trên các giai cấp hoặc bộ phận cá nhân nhất định - như các nhà nữ quyền vẫn làm - mà đồng ý rằng các cá nhân nên được hưởng lợi từ các nguồn lực giống nhau và có các quyền như nhau.
Một số người theo chủ nghĩa bình đẳng đổ lỗi cho các nhà nữ quyền tập trung vào quyền của phụ nữ và chỉ trích các nhà hoạt động LGBTI và các cá nhân vận động cho quyền của người khuyết tật.
Trong cùng một quan điểm, không thể phân loại như vậy vì tất cả mọi người đều giống hệt nhau, bất kể nam hay nữ, đồng tính hay dị tính, già hay trẻ, hoặc bị vô hiệu hóa.
Các cuộc chiến nữ quyền là một phần của quan điểm bình đẳng, nhưng họ có tầm nhìn rộng hơn nhiều về quyền con người và quyền công dân.
Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền năm 1948 nói rằng “tất cả mọi người được sinh ra một cách tự do và bình đẳng về phẩm giá và quyền” và rằng phong trào công bằng được thành lập trên cơ hội bình đẳng.
UDHR là văn bản chính phác thảo các quyền con người cơ bản của tất cả mọi người mà không có sự khác biệt hoặc phân loại.

Sự khác biệt chính giữa nữ quyền và bình đẳng
- Chủ nghĩa nữ quyền là niềm tin rằng phụ nữ bình đẳng về mặt xã hội, kinh tế và chính trị. Trong khi đó, chủ nghĩa bình đẳng thúc đẩy sự bình đẳng vốn có của con người và do đó, sự bình đẳng của tư bản.
- Chủ nghĩa nữ quyền là một phạm vi nhằm xác định và phát triển sự bình đẳng về chính trị, kinh tế, cá nhân và xã hội của hai giới trong các phong trào xã hội, phong trào chính trị và triết học. Đồng thời, chủ nghĩa bình đẳng, với tư cách là một triết lý toàn diện hơn, cũng hướng tới mục tiêu tương tự. Nó thúc đẩy sự bình đẳng vốn có của con người và do đó, sự bình đẳng của tư bản.
- Đôi khi, phụ nữ bị nghi ngờ là thực sự vượt trội so với nam giới. Các nhà phê bình cho rằng sự mất cân bằng xã hội và bất bình đẳng mà phụ nữ phải chịu trong tương lai sẽ tiếp tục nếu chủ nghĩa nữ quyền đạt được tất cả các mục tiêu của nó. Ngược lại, sự bình đẳng của tất cả mọi người không được củng cố một cách tiêu cực, bất kể đẳng cấp, tuổi tác hay ngoại hình.
- Chủ nghĩa nữ quyền có bốn loại, trong khi chủ nghĩa bình đẳng có nhiều loại.
- Chủ nghĩa nữ quyền bắt đầu với tiền đề là phụ nữ ở trong hoàn cảnh thiệt thòi với nam giới, đây là một yêu cầu rõ ràng để đề cao quyền của phụ nữ; bình đẳng được nhìn nhận theo cùng một cách đối với tất cả mọi người, ủng hộ bình đẳng bất kể giới tính, dân tộc, tuổi tác hoặc đặc điểm thể chất.
