Khoáng chất đề cập đến các nguyên tố hoặc hợp chất hóa học được hình thành do các quá trình địa chất khác nhau. Những khoáng chất này chủ yếu là tinh thể. Tất cả các khoáng chất có thành phần hóa học và tính chất khác nhau.
Chúng cũng có các tính chất vật lý khác nhau. Chúng được sử dụng cho các mục đích khác nhau. Thạch anh và Canxit là hai khoáng chất như vậy.
Các nội dung chính
- Thạch anh là khoáng chất silicat có công thức hóa học là SiO2, trong khi Canxit là khoáng chất cacbonat có công thức hóa học là CaCO3.
- Thạch anh có độ cứng là 7 trên thang Mohs, giúp nó có khả năng chống trầy xước tốt hơn, trong khi Canxit có độ cứng thấp hơn là 3.
- Thạch anh có tính áp điện, tạo ra điện tích khi chịu ứng suất cơ học, trong khi Canxit không có tính chất này.
Thạch anh vs Canxit
Thạch anh là một khoáng chất bao gồm các nguyên tử silicon và oxy trong một khuôn khổ liên tục của tứ diện silicon-oxy SiO4, với mỗi oxy được chia sẻ giữa hai tứ diện. Canxit là khoáng vật cacbonat có công thức hóa học CaCO3. Nó mềm hơn thạch anh rất nhiều, có độ cứng chỉ bằng 3 trên thang Mohs.
Thạch anh là một khoáng chất bao gồm silica hoặc silicon dioxide. Thuật ngữ này có nguồn gốc từ tiếng Đức 'Quartz. Nó là một khoáng chất thực sự cứng thường được tìm thấy ở dạng hình lục giác. Nó có sẵn trong các hình thức khác nhau.
Tinh thể này cũng có nhiều màu sắc khác nhau.
Canxit là một khoáng chất là một khoáng chất cacbonat với sự phân cắt hình thoi. Thuật ngữ này có nguồn gốc từ tiếng Đức 'Calcit'. Nó là một khoáng chất cứng vừa phải cũng có sẵn ở các dạng khác nhau. Bề ngoài của tinh thể này có màu trắng hoặc mờ đục.
Màu sắc có thể thay đổi nếu nó bị nhiễm tạp chất.
Bảng so sánh
Các thông số so sánh | đá thạch anh | Calcite |
---|---|---|
Độ cứng | Để so sánh, thạch anh cứng hơn khoảng bốn lần. | Để so sánh, canxit ít cứng hơn khoảng bốn lần. |
Hình dạng | Chúng thường được tìm thấy ở dạng lăng trụ lục giác. | Chúng thường được tìm thấy ở dạng hình thoi. |
Nước bóng | Bề ngoài của chúng chủ yếu là thủy tinh, hoặc chúng cũng có thể có ánh thủy tinh. | Nó có thể có độ bóng như thủy tinh hoặc nhựa, hoặc xỉn màu. |
Sự phân chia | Nó không được trang bị với sự phân tách mạnh mẽ. | Nó có một sự phân cắt hình thoi. |
Thành phần hóa học | Về thành phần hóa học, nó là một tinh thể silicon dioxide. | Về thành phần hóa học, nó là một khoáng chất canxi cacbonat. |
Thạch anh là gì?
Thuật ngữ này có nguồn gốc từ tiếng Đức 'Quarz.' Nó là một phần của hệ thống tinh thể lượng giác. Nó được khai thác từ các mỏ lộ thiên. Thạch anh đề cập đến một khoáng chất cứng và kết tinh.
Khoáng chất này bao gồm silica hoặc silicon dioxide. Công thức hóa học tổng thể đưa ra là SiO2. Khoáng sản phong phú thứ hai được tìm thấy là Thạch anh. Sự tồn tại của nó có hai dạng khác nhau, như sau-
- Thạch anh thường hay thạch anh Alpha (α)-
- Thạch anh nhiệt độ cao hay Beta (β)- thạch anh
Cả thạch anh đều là bất đối xứng. Thạch anh thông thường hoặc thạch anh Alpha (α)- có thể được biến đổi thành thạch anh nhiệt độ cao hoặc Beta (β)- ở 573 °C. Sự chuyển đổi này đi kèm với sự thay đổi lớn về khối lượng.
Sự thay đổi này có thể dẫn đến sự đứt gãy gốm hoặc đá khi vượt qua ngưỡng nhiệt độ.
Thạch anh có nhiều loại. Hầu hết chúng cũng là đá bán quý. Chúng là một trong những loại đá được sử dụng phổ biến nhất để làm đồ trang sức và chạm khắc.
Thạch anh trong, thạch anh tím, thạch anh vàng, thạch anh hồng và thạch anh ám khói là một số loại thạch anh phổ biến. Người ta cũng tin rằng đây là những viên đá chữa bệnh. Một số người sử dụng chúng để có được sự bình tĩnh, tình yêu, hòa bình và những thứ khác.
Canxit là gì?
Canxit đề cập đến một khoáng chất cacbonat. Khoáng chất này cũng là dạng đa hình ổn định nhất của canxi cacbonat. Aragonit và vaterit là các dạng đa hình khác của canxi cacbonat. Aragonit có khả năng biến đổi thành canxit.
Điều này có thể diễn ra trong nhiều ngày hoặc thậm chí nhanh hơn với nhiệt độ trên 300 °C. Thuật ngữ canxit có nguồn gốc từ tiếng Đức 'Calcit'. Nó cũng liên quan về mặt từ nguyên với phấn.
Khoáng chất này có nhiều dạng khác nhau. Có hơn 800 dạng Canxit được xác định. Trong số các dạng nàyScalenohedra và rhombohedral là những dạng phổ biến nhất.
Về độ cứng, nó có giá trị xác định là 3 trên Thang độ cứng khoáng Mohs. Về hình thức, nó mờ đục hoặc có màu trắng. Tuy nhiên, nó có thể thay đổi màu sắc nếu khoáng chất bị nhiễm một số tạp chất.
Màu đã thay đổi không được xác định; nó có thể thay đổi thành bất kỳ sắc thái nào, kể cả màu đen.
Một tính chất quang học được gọi là lưỡng chiết suất được hiển thị bởi một tinh thể canxit. Tính chất này còn được gọi là khúc xạ kép. Do đó, các vật thể được nhìn thấy qua tinh thể dường như đã tăng gấp đôi.
Vì nó là một khoáng chất cacbonat, nó có thể hòa tan trong axit. Tinh thể này cũng vậy, được sử dụng cho nhiều mục đích, bao gồm làm đồ trang sức và chạm khắc. Khoáng chất này cũng được cho là có đặc tính chữa bệnh.
Sự khác biệt chính giữa thạch anh và canxit
- Để so sánh, thạch anh cứng hơn khoảng bốn lần. Để so sánh, canxit ít cứng hơn khoảng bốn lần.
- Thạch anh thường được tìm thấy ở dạng lăng trụ lục giác. Canxit thường được tìm thấy ở dạng hình thoi.
- Sự xuất hiện của thạch anh chủ yếu là thủy tinh, hoặc nó cũng có thể có ánh thủy tinh. Canxit có thể có ánh thủy tinh hoặc nhựa, hoặc xỉn màu.
- Thạch anh không được trang bị với sự phân tách mạnh mẽ. Canxit có một sự phân cắt hình thoi.
- Về thành phần hóa học, thạch anh là một tinh thể silicon dioxide. Canxit, về thành phần hóa học, là một khoáng chất canxi cacbonat.
Tôi thấy lời giải thích về cách Canxit có thể đổi màu khi bị nhiễm tạp chất khá thú vị.
Bảng so sánh đặc biệt hữu ích, nó thực sự giúp tóm tắt những khác biệt chính giữa các khoáng chất này.
Việc đưa vào các tài liệu tham khảo là một điều tuyệt vời, nó làm tăng thêm độ tin cậy cho thông tin được trình bày.
Ý tôi là, tôi sẽ thích một cách hài hước hơn về sự khác biệt giữa các khoáng chất này, tại sao lại nghiêm trọng đến vậy?
Bài viết đã đi sâu rất nhiều về thành phần hóa học và tính chất của thạch anh và canxit.
Những so sánh giữa thạch anh và canxit rất chi tiết, tôi đã học được rất nhiều điều.
Tôi nghĩ Thạch anh là một loại khoáng chất thú vị hơn nhiều, đặc biệt là khi nói đến các dạng khác nhau của nó. Rất hấp dẫn.
Lẽ ra người viết nên tập trung hơn vào công dụng thực tế của những loại khoáng chất này, tôi thấy còn thiếu khía cạnh đó.