Thuật ngữ tiếng Anh Siddhartha là một cách phát âm sai của từ tiếng Phạn “Buddh”. Các từ tiếng Phạn “Bodhi” và “Sattv” được kết hợp để tạo thành thuật ngữ Bồ tát.
Trong Bồ tát, cụm từ “Sattva” là bản dịch tiếng Anh của từ gốc tiếng Phạn “Sattv.” Để đi sâu hơn vào thế giới của phật và bồ tát, trước tiên chúng ta phải hiểu các định nghĩa và sự khác biệt của họ để phát âm chúng một cách chính xác về mặt sự kiện và truyền thống.
Chẳng bao lâu nữa, bạn sẽ có thể nắm được cả hai cụm từ nhờ bài viết mô tả này!
Các nội dung chính
- Đức Phật đề cập đến một bậc giác ngộ đã đạt được Niết bàn.
- Bồ tát là một cá nhân giác ngộ trì hoãn Niết bàn để giúp người khác đạt được giác ngộ.
- Cả hai khái niệm bắt nguồn từ Phật giáo và nhấn mạnh lòng từ bi và vị tha.
Phật vs Bồ tát
Phật là danh hiệu chỉ người đã đạt được sự giác ngộ hoàn toàn và thức tỉnh với bản chất thực sự của thực tại trong giáo lý của Phật giáo. Bồ tát là một chúng sinh đã phát nguyện đạt được sự giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh và vẫn chưa giác ngộ hoàn toàn.

Sattva Gunh bắt đầu cai trị con người khi ai đó có thể điều chỉnh hoạt động tinh thần của họ. Cái thấy sai lầm (Maya) về chân lý mất dần đi, Bồ tát tỏa sáng, một quan điểm đúng đắn về thực tại xuất hiện, và con người nhìn thấy thực tại như nó vốn có.
Anh ta được giải thoát khỏi vòng sinh tử nhờ hiểu được tiến trình nhân quả mà các sinh vật có tri giác ra vào tạo vật. Con người đạt được giai đoạn này chính là Đức Phật, và do đó, Ngài là người lãnh đạo hay đúng hơn là nguồn cảm hứng cho mỗi con người sống trong thời đại này và cả những thời đại sắp tới.
Các thuật ngữ Bodhi, cũng như Sattva kết hợp để tạo thành Bodhi. Bodhi là từ tiếng Phạn có nghĩa là “sự hiểu biết hoàn toàn” hay “trí thông minh”.
Đó là thông tin thuần khiết, toàn cầu và nhanh chóng.
Sattva là một trạng thái tinh thần trong đó tâm trí ổn định, yên tĩnh và thanh thản, và trạng thái não bộ, lời nói và hành vi đều được phối hợp để duy trì trạng thái tâm trí này. Đó là quá trình và hào quang của việc tiến gần đến lý tưởng và đạt được cảnh giới của chính Đức Phật.
Bảng so sánh
Các thông số so sánh | Phật | Bồ tát |
---|---|---|
khởi phát ban đầu | Đức Phật đản sinh năm 623 TCN. | Đỉnh cao của việc tôn thờ Bồ tát ở miền bắc Ấn Độ xảy ra vào khoảng thế kỷ thứ 3 đến thế kỷ thứ 7. Lòng sùng mộ Bồ tát Quán Thế Âm lần đầu tiên được đưa vào Trung Quốc vào thế kỷ thứ nhất sau Công Nguyên. |
Nguyên từ | Tiếng Phạn bodhati “tỉnh thức, quan sát, hiểu,” từ gốc PIE *bheudh- “hãy nhận biết, nhận biết. | tiếng Phạn, 'một người có bản chất là kiến thức hoàn hảo', từ bồ đề 'kiến thức hoàn hảo' (từ phật- 'biết rõ') + sattva 'là, bản chất'. |
Ý nghĩa | Đức Phật là người sáng lập đạo Phật. Thuật ngữ 'Phật' là một tên gọi được dịch đơn giản là 'một người đã giác ngộ'. | Bồ-tát là người vừa cầu Bồ-đề vừa thực hành Sattva. |
Traineeship | Giai đoạn cuối cùng để hiểu biết thực tại và thoát khỏi vòng luân hồi của sự sống, cái chết và sự tái sinh. | Giai đoạn trước khi thành Phật. Nó đòi hỏi sự cống hiến và tận tâm tối đa cũng như kiến thức. |
khả năng đạt được | Không đạt được. | Có thể đạt được với sự tận tâm và chính đáng. |
Phật là ai?
Đức Phật là người sáng lập đạo Phật. Thuật ngữ 'Phật' là một tên gọi được dịch là 'một người đã giác ngộ', như trong 'thức dậy với thế giới thực'. Khoảng hai nghìn năm trước, Phật giáo được thành lập ở Nepal theo hướng đã được Siddhartha Gautama chỉ ra.
Anh ấy không giả vờ là một lời tiên tri hay một vị thần. Anh ta là một sinh vật bình thường đã trở nên thức tỉnh, đạt được sự hiểu biết hoàn toàn về sự tồn tại.
Siddhartha lớn lên ở một quốc gia nhỏ bé ở biên giới Ấn Độ, cụ thể là; Nepal, trong một gia đình hoàng gia. Vì vậy, theo truyền thuyết, ông đã có một tuổi thơ giàu có nhưng đã bị chấn động khi nhận ra rằng cuộc sống bao hàm những thực tế khắc nghiệt của tuổi già, bệnh tật và cái chết.
Tất-đạt-đa Cồ-đàm đại diện cho một lớp người khổng lồ đã đi ra khỏi Văn hóa Ấn Độ trong việc tìm kiếm sự giải thoát với tất cả những hành động này. Trước khi tiến đến giai đoạn được gọi là 'Phật', Gautama đã xem xét nhiều phương pháp luận và nhà giáo dục khác nhau, bao gồm những người theo chủ nghĩa hoài nghi, những người theo chủ nghĩa hiện thực, những người theo chủ nghĩa lý tưởng và những nhà biện chứng.
Vào thời của họ, khu rừng rộng lớn và khu chợ đông đúc vẫn sống động với tiếng ồn ào của hàng trăm cuộc tranh luận và quan điểm. Siddhartha và năm cộng sự của mình tập thể dục kiêng và thiền định trong sáu năm dài.
Anh ấy đã đẩy bản thân đến giới hạn, chỉ ăn một hạt cơm mỗi ngày và đấu tranh tư tưởng chống lại cơ thể mình. Xương sườn của anh ta nhô ra khỏi lớp thịt thối rữa khiến anh ta dường như trở nên chết hơn là sống, và sau đó, khoảnh khắc thăng thiên từ Siddhartha thành Đức Phật đã xảy ra.

Bồ tát là gì?
Bồ-tát là người vừa cầu Bồ-đề vừa thực hành Sattva. Đó thực sự là một người theo đuổi sự hiểu biết chi tiết với một tâm trí ổn định, tĩnh lặng và thanh thản bằng cách đồng bộ hóa một cách tỉ mỉ các chức năng, lời nói và hành động của bộ não của họ.
Vị Phật hay Bồ tát tầm cầu là người khao khát trở thành một vị Phật hay một vị Bồ tát. Bồ tát là những người thờ phượng và những tín đồ của Đức Phật đã giác ngộ đang trên đà đạt được tri kiến viên mãn.
Theo một số văn bản tôn giáo Kim Cương thừa, các vị Bồ tát cố ý bảo tồn một nghiệp lực nhỏ trong nhận thức của họ để họ có thể hồi sinh trở lại cõi người. Để đưa ra những hành động đồng cảm vô tận của họ trong việc xoa dịu mọi người, hoặc rằng họ thực sự là những vị Phật đang hiển lộ với ai đó trong vũ trụ này.
Mặt khác, bản chất thực sự của Bồ tát rất khác biệt so với tầm nhìn của loài người. Bồ-tát là người kính Phật, nghiên cứu Giáo lý nhà Phật và sẵn sàng giúp đỡ nhân loại, cho dù điều đó có nghĩa là cống hiến cả cuộc đời mình cho sự giải thoát của tất cả chúng sinh.
Người Phật tử phải đi theo con đường Bồ-tát để trở thành vị Phật tiếp theo. Và thành Phật là kết quả của việc thực hành Bồ tát.

Sự khác biệt chính giữa Phật và Bồ tát
- Đức Phật là người đầu tiên đạt đến niết bàn, trong khi Bồ tát đến sau khi Đức Phật rời khỏi thế giới phàm trần.
- Đức Phật là người đi trước, còn bồ tát là người đi sau.
- Đức Phật là vị thần tối cao, trong khi các vị bồ tát là những người theo và thực hành giáo lý của Đức Phật.
- Đức Phật là một cấp độ của niết bàn tuyệt đối, trong khi bồ tát là một cấp độ có thể đạt được có thể đạt được bằng thần thánh tối đa và sự cống hiến cho cuộc sống và Phật giáo.
- Đức Phật được sinh ra vào năm 623 trước Công nguyên, trong khi bồ tát được giới thiệu vào thế kỷ thứ 3 ở Ấn Độ.
