EPF và CPF là hai loại quỹ dự phòng trong đó nhân viên phải đóng góp một tỷ lệ phần trăm cố định vào mức lương cơ bản của mình. Chúng được cấp cho các nhân viên làm công ăn lương của một tổ chức.
CPF dành cho nhân viên chính phủ không hưởng lương hưu. Mặc dù EPF và CPF là hai loại quỹ dự phòng có nhiều điểm tương đồng, nhưng chúng cũng có một số điểm khác biệt đáng kể.
Các nội dung chính
- EPF và CPF đều là các chương trình tiết kiệm hưu trí.
- EPF dành cho nhân viên ở Malaysia, trong khi CPF dành cho nhân viên ở Singapore.
- EPF cho phép rút tiền cho một số mục đích nhất định, chẳng hạn như mua nhà, trong khi CPF có nhiều hạn chế hơn.
EPF so với CPF
Sự khác biệt giữa EPF và CPF là EPF là Quỹ dự phòng của nhân viên, trong khi CPF là Quỹ dự phòng trung ương. EPF dành cho người hưởng lương của Ấn Độ và Malaysia. Mặt khác, chương trình CPF được thiết kế cho nhân viên của Singapore. Cả hai đều được triển khai ở các quốc gia khác nhau và cũng có các điều khoản khác nhau.

EPF được triển khai như một công cụ an sinh xã hội và là viết tắt của Employees Provident Fund. Chương trình này dành riêng cho nhân viên hưởng lương người Ấn Độ và Malaysia.
Theo chương trình EPF, một nhân viên phải đóng góp 12% tiền lương của mình vào tài khoản EPF. Tỷ lệ phần trăm được quyết định bởi chính phủ.
Quỹ này có thể được rút khi nghỉ hưu của nhân viên.
CPF được gọi là Quỹ tiết kiệm trung ương và có lợi cho những người làm công ăn lương ở Singapore. Theo chương trình CPF, một nhân viên có thể đóng góp 20% tiền lương của mình.
Tỷ lệ đóng góp bắt đầu từ mức tối thiểu 13% và không thể chạm vào nó cho đến khi nhân viên nghỉ hưu. Có ba loại tài khoản CPF, đó là Tài khoản thông thường, Tài khoản đặc biệt và Tài khoản Medisave.
Bảng so sánh
Các thông số so sánh | EPF | CPF |
---|---|---|
Giá cho | Quỹ bảo trợ nhân viên | Quỹ dự phòng Trung ương |
Nó là gì? | Đó là một chương trình tiết kiệm an sinh xã hội do Chính phủ Trung ương duy trì cho những người lao động làm việc trong các lĩnh vực có tổ chức. | Nó là một công cụ an sinh xã hội được tài trợ bởi những người làm công ăn lương của Singapore. |
Tỷ lệ đóng góp | Người lao động làm việc theo chương trình EPF phải đóng 12% lương cơ bản. | Tối thiểu 20% lương cơ bản. |
Điều Kiện Cần Có | Nhân viên của các tổ chức Ấn Độ và Malaysia. | Nhân viên Singapore. |
tuổi rút tiền | năm 58. | năm 55. |
Thành lập tại | 1952 | 1955 |
EPF là gì?
EPF là một loại quỹ tiết kiệm được cấp cho những người làm công ăn lương của một tổ chức. EPF có nghĩa là Quỹ tiết kiệm nhân viên. Công cụ an sinh xã hội này dành cho nhân viên của Ấn Độ và Malaysia.
Theo chương trình EPF, bảo hiểm y tế và hóa đơn nhà ở được chi trả. Quỹ này có thể được rút ra khi người lao động nghỉ hưu.
Nó được thành lập vào năm 1952 và bao gồm nhiều cơ sở tài chính và các chương trình bảo mật.
Trong chương trình này, cả người lao động và người sử dụng lao động đều đóng góp 12% tiền lương cơ bản của họ vào quỹ EPF. Có tổng cộng 12% đóng góp, 8.33% trong số đó được chuyển sang chế độ EPS hoặc lương hưu, và 3% còn lại được đầu tư vào EPF.
Nó trả một khoản tiền cho các chương trình nhà ở, chế độ lương hưu và chính sách bảo hiểm. Nó cũng bao gồm các chi phí chăm sóc sức khỏe và liên quan đến hưu trí.
Chỉ những nhân viên của các ngành có tổ chức mới đủ điều kiện tham gia chương trình EPF. Bất kỳ tổ chức hoặc lĩnh vực nào có hơn 20 nhân viên đều phải đăng ký theo chương trình EPF.
Một nhân viên sẽ đủ điều kiện tham gia chương trình lương hưu EPF nếu anh ta hoàn thành 10 năm phục vụ tích lũy tại bất kỳ tổ chức nào đã đăng ký EPF. Lãi suất EPF hiện tại là 8.50% và chính phủ quyết định theo thời gian.
CPF là gì?
CPF là một chương trình dịch vụ an sinh xã hội cung cấp bảo đảm tài chính cho người lao động và người sử dụng lao động. Nó được quản lý bởi hội đồng Quỹ tiết kiệm trung ương và được thành lập vào ngày 1 tháng 1955 năm XNUMX.
Người lao động và người sử dụng lao động theo chương trình CPF được yêu cầu đóng góp hàng tháng vào tài khoản CPF. Công cụ an sinh xã hội này dành cho người lao động hưởng lương tại Singapore.
CPF cung cấp một kế hoạch hưu trí lành mạnh cho người dân Singapore và cũng chi trả cho các nhu cầu liên quan đến sức khỏe, hưu trí, y tế và nhà ở. CPF dành cho những người nắm giữ dịch vụ chính phủ không được hưởng lương hưu.
Chương trình này bao gồm lương hưu hàng tháng, bảo vệ gia đình và các chế độ bảo hiểm. Theo kế hoạch này, người lao động trong khu vực công được yêu cầu gửi 20% thu nhập hàng tháng của họ vào quỹ CPF.
Nhân viên đủ điều kiện để rút tiền ở tuổi 55 từ tài khoản CPF.
Có ba loại tài khoản CPF chính: Tài khoản thông thường, Tài khoản đặc biệt và Tài khoản Medisave. Tài khoản thông thường dành cho các khoản thanh toán bảo hiểm CPF, chi phí giáo dục, chương trình nhà ở và đầu tư.
Các tài khoản đặc biệt cung cấp các thỏa thuận tài chính liên quan đến hưu trí. Tài khoản Medisave chi trả cho các hợp đồng bảo hiểm y tế.
Ở tuổi 65, nhân viên theo chương trình này bắt đầu nhận được khoản thanh toán hàng tháng từ tài khoản tiết kiệm CPF.

Sự khác biệt chính giữa EPF và CPF
- EPF là viết tắt của Quỹ tiết kiệm nhân viên. Mặt khác, CPF là viết tắt của Quỹ tiết kiệm trung ương.
- EPF được thành lập vào năm 1952. Mặt khác, CPF được thành lập sau khi thành lập chương trình EPF vào năm 1955.
- EPF dành cho nhân viên Ấn Độ và Malaysia của các tổ chức khác nhau. Mặt khác, CPF dành cho nhân viên Singapore.
- Những người tham gia chương trình EPF cần đóng góp 12% lương cơ bản. Mặt khác, người lao động cần phải trả ít nhất 20% lương cơ bản vào tài khoản CPF.
- Tuổi rút vốn cho chương trình EPF là 58 tuổi. Mặt khác, theo chương trình CPF, người lao động có thể rút tiền khi 55 tuổi.

- https://books.google.com/books?hl=en&lr=&id=Do6LBQAAQBAJ&oi=fnd&pg=PT49&dq=epf+and+cpf+account&ots=nd5Ym5CV9r&sig=RMwNHnNswZ1YBw-4VESYK5xyLuc
- https://www.researchgate.net/profile/Nik-Hazimi-Mohammed-Foziah/publication/330036182_Analysis_of_private_sector_retiree’s_decision_towards_EPF_retirement_benefit_of_annuity-based_option/links/5c6227ac45851582c3e177ae/Analysis-of-private-sector-retirees-decision-towards-EPF-retirement-benefit-of-annuity-based-option.pdf