Có rất nhiều tôn giáo trên thế giới mà mọi người theo và tin tưởng. Con người tạo ra tất cả các tôn giáo, một số tôn giáo lâu đời hơn và nguồn gốc của chúng không rõ ràng, trong khi những tôn giáo khác không kém phần cổ xưa và nguồn gốc của chúng rất nổi tiếng. .
Những tôn giáo này hình thành cơ sở sinh kế của họ và ảnh hưởng đến suy nghĩ và nhân cách của họ. Và do đó, tất cả các tôn giáo đều đóng một vai trò quan trọng trong đời sống con người.
Ví dụ về các tôn giáo như vậy có thể là Phật giáo và Kỳ Na giáo. Cả hai đều không lâu đời như một số tôn giáo khác, được tìm thấy trong những năm tương tự và có một số điểm tương đồng khác.
Tất cả đều có thể gây nhầm lẫn cho một người không biết về chúng. Những khác biệt sau đây sẽ giúp hiểu được cả hai tôn giáo này.
Các nội dung chính
- Phật giáo và Kỳ Na giáo đều bắt nguồn từ Ấn Độ cổ đại và nhấn mạnh đến bất bạo động và từ bi.
- Phật giáo tin vào khái niệm Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo, trong khi Kỳ Na giáo nhấn mạnh khái niệm không dính mắc và không sở hữu.
- Phật giáo có nhiều tín đồ trên toàn thế giới hơn Kỳ Na giáo.
Phật giáo vs đạo Jain
Sự khác biệt giữa Phật giáo và Kỳ Na giáo là cả hai đều được thành lập bởi những người khác nhau và có niềm tin khác nhau. Phật giáo không tin vào linh hồn, trong khi Kỳ Na giáo tin vào linh hồn. Trong trường hợp của Phật giáo, tăng đoàn và các nhà sư nổi bật hơn, trong khi sự nổi bật được trao cho các tín đồ tại gia. Kỳ Na giáo không lan truyền ở một số quốc gia so với Phật giáo, vốn lan rộng ở nhiều nước ngoài. Cuối cùng, phụ nữ theo đạo Kỳ Na được trao nhiều tự do hơn, trong khi phụ nữ theo đạo Phật ít tự do hơn.

Phật giáo là một tôn giáo có nguồn gốc từ Ấn Độ và dựa trên lời dạy của Đức Phật Gautama. Lời dạy của ngài chịu ảnh hưởng của nghiệp chướng và sự tái sinh của chúng sinh.
Tất cả những điều này đều dựa trên những việc làm tốt của một người trong cuộc đời họ và để bù đắp cho những việc làm xấu mà họ đã làm trong cuộc đời trước đây.
Kỳ Na giáo cũng là một tôn giáo Ấn Độ còn được gọi là Jain Pháp. Giáo lý của nó tin vào linh hồn và nghiệp chướng. Nó dạy cách một người tự chịu trách nhiệm về số phận của mình, và sự cứu rỗi không thể đạt được bằng cách tôn thờ bất kỳ vị thần nào.
Một người chỉ có thể đạt được linh hồn của mình bằng cách cải thiện nghiệp lực của mình và không làm hại bất cứ thứ gì trên trái đất; nó cũng tin rằng cuộc sống trên trái đất không bao giờ có thể kết thúc.
Bảng so sánh
Các thông số so sánh | Phật giáo | Jainism |
---|---|---|
Niềm tin linh hồn | Không | Tin vào linh hồn |
nổi bật đưa ra | tăng đoàn và tu sĩ | Giáo dân theo dõi. |
nhấn mạnh vào | Cảm xúc tự do và hành vi thực tế | Ahimsa cực đoan |
lây lan trong | Đất nước khác nhau | Chủ yếu ở Ấn Độ |
phụ nữ tự do | Ít hơn | Xem thêm |
Đạo Phật là gì?
Siddhartha Gautama thành lập nó; anh ta là một Kshatriya, người có một cuộc sống xa hoa. Nhưng sau khi nhận ra nỗi khổ cuối đời, ông quyết định từ bỏ mọi đặc quyền của mình. Giáo lý của Ngài bao gồm bốn chân lý cao quý,
- Sự thật thứ nhất: nó xác định sự hiện diện của đau khổ.
- Sự thật thứ hai: xác định nguyên nhân của đau khổ.
- Sự thật thứ ba: sự chấm dứt đau khổ trong cuộc sống trần thế hay tâm linh sau khi đạt được niết bàn.
- Chân lý thứ tư: đạt đến sự chấm dứt khổ đau.
Những sự thật này có thể đạt được bằng cách đi trên con đường hiểu biết đúng đắn, suy nghĩ đúng đắn, nói đúng đắn, tinh tấn đúng đắn, v.v., và nó cũng có thể được chia thành ba phần:
- Hành vi đạo đức tốt: điều này bao gồm suy nghĩ, hiểu biết và lời nói.
- Thiền định và Phát triển Tâm thần: điều này bao gồm nỗ lực, sinh kế và hành động.
- Trí tuệ hay sự sáng suốt: bao gồm chánh niệm và sự tập trung.
Nó dạy những niềm tin sau đây:
- Nghiệp: nó tin vào nghiệp, vì nó bao gồm hai loại hành động hoặc hành động, tốt hoặc xấu. Hành động tốt bao gồm việc không có hành động xấu hoặc một số hành động tốt khác đối với người khác, chẳng hạn như mang lại hạnh phúc, bố thí, công bình, v.v.
- Chu kỳ Tái sinh: điều này cũng bị ảnh hưởng bởi Karma; nếu một người đã làm những việc thiện hoặc hành động trong suốt cuộc đời của mình, anh ta có nhiều khả năng được tái sinh vào cõi may mắn hơn, trong khi những người khác đã làm những hành động xấu sẽ sinh vào cõi kém may mắn hơn.

Kỳ Na giáo là gì?
Vị thánh cuối cùng của Kỳ Na giáo được biết đến là Mahavira. Sau đây là những niềm tin chính của tôn giáo này:
- Niềm tin vào linh hồn và nghiệp chướng: niềm tin này vào linh hồn và nghiệp chướng, linh hồn có thể được giải thoát bằng cách làm việc thiện hoặc tạo nghiệp tốt bằng cách trở thành một con người tốt và tử tế với mọi người và các sinh vật khác.
- Nirvana: Điều này có thể đạt được bằng cách thực hiện những nghiệp tốt nhất trong cuộc sống và tránh mọi hành động xấu có thể ảnh hưởng đến bất kỳ con người hoặc sinh vật nào khác.
- Không tin vào Chúa: anh ấy tin rằng mọi người đều chịu trách nhiệm về số phận của mình thông qua nghiệp lực của họ. Anh ta không tin vào Chúa hay tôn thờ thánh thư, hay tin vào bất kỳ điều mê tín nào.
- Từ chối Veda: lời dạy của ông bác bỏ tất cả niềm tin và lời dạy của Veda, ví dụ, các nghi lễ hiến tế của hoặc bởi những người Bà La Môn.
- Ahimsa: nó coi trọng ahimsa theo đó gây hại cho bất kỳ ai, vì bởi anh ta, mọi thứ đều sở hữu sự sống trên trái đất.
- Tự do cho phụ nữ: ông tin rằng phụ nữ nên được trao quyền tự do và bình đẳng.
Các niềm tin khác của tôn giáo này có thể là:
- Ahimsa: có nghĩa là không gây thương tích cho bất kỳ sinh vật sống nào.
- Sunita: có nghĩa là không nói dối.
- Artuja: nó có nghĩa là một người không nên lấy bất cứ thứ gì mà anh ta không được cho.
- Aparigraha: có nghĩa là dính mắc vào bất kỳ tài sản thế gian nào.
- Brahmacharya: trinh tiết.
Hành vi chung của tôn giáo này bao gồm:
- Bất bạo động:
- Sự thật
- Từ thiện:
- Trau dồi trạng thái tâm trí đúng đắn.
- Không chạm vào chất say.
- Trì tụng thần chú.

Sự khác biệt chính giữa Phật giáo và đạo Jain
- Cả hai đều dựa trên sự dạy dỗ của những tính cách khác nhau. Phật giáo dựa trên lời dạy của Đức Phật Gautama, trong khi Kỳ Na giáo dựa trên lời dạy của Tirthankaras. Phật Gautama là người sáng lập Phật giáo, trong khi Vardhamana là người sáng lập Kỳ Na giáo.
- Kỳ Na giáo là một tôn giáo tin vào linh hồn gắn liền với một số loại vật chất không sống, trong khi Phật giáo không tin vào linh hồn. Nó được coi như một thực thể thay đổi.
- Họ cũng khác nhau về kiến thức, Kỳ Na giáo nhấn mạnh vào kiến thức giải thoát, trong khi Phật giáo nhấn mạnh vào kiến thức về mục đích của cuộc sống.
- Khi so sánh về sự tự do dành cho phụ nữ, Kỳ Na giáo mang lại nhiều tự do hơn cho phụ nữ bằng cách mang lại cho họ nhiều quyền bình đẳng hơn, trong khi Phật giáo ít nhấn mạnh hơn về sự tự do đối với phụ nữ.
- Kỳ Na giáo chỉ giới hạn ở một số quốc gia, chỉ có ở Ấn Độ, trong khi Phật giáo được truyền bá sang nhiều quốc gia khác.
