Curtal Sonnet, Terza Rima Sonnet, Miltonic Sonnet, Spenserian Sonnet, Shakespearean Sonnet, và Italian Sonnet là một số dạng sonnet khác nhau được viết bằng tiếng Anh.
Odes, limericks, tường thuật, câu đối, villanelles, elegy, sestinas, haiku, sonnet, và ballad đều là những ví dụ về thơ tự do. Sonnets là một loại bài thơ được chia thành các phần. Một tập hợp con của bài thơ là sonnet.
Các nội dung chính
- Sonnet là một thể loại thơ cụ thể với cấu trúc chặt chẽ bao gồm 14 dòng, trong khi các bài thơ bao gồm một loạt các hình thức và phong cách.
- Sonnet tuân theo một sơ đồ vần và nhịp điệu cụ thể, trong khi các bài thơ có thể có nhiều sơ đồ vần và nhịp điệu khác nhau hoặc không có gì.
- Sonnet theo truyền thống khám phá các chủ đề về tình yêu và vẻ đẹp, trong khi các bài thơ có thể giải quyết các chủ đề và cảm xúc khác nhau.
Sonnet vs bài thơ
Sự khác biệt giữa Sonnet và Poems là sonnet là thơ mười bốn dòng. Nó có thể có bất kỳ sơ đồ vần điệu chính thức nào. Cụm từ “Sonnet” xuất phát từ từ tiếng Ý “Sonetto”, có nghĩa là “Bài hát nhỏ”. Trong khi đó, thơ là một hình thức văn học trong đó những suy nghĩ và cảm xúc được miêu tả thông qua việc sử dụng hình ảnh, nhịp điệu, vần điệu và phương hướng đặc biệt. Từ “bài thơ” xuất phát từ một từ Hy Lạp có nghĩa là “sáng tác hoặc thực hiện”.
Sonnets phải được viết trong một định dạng chính xác. Sonnets không thể được viết nếu cấu trúc bị cản trở. Số dòng mà sonnet phải được viết đã được xác định trước. Chỉ có mười bốn dòng trong cấu trúc ở đây.
Sonnet Curtal, Sonnet Terza Rima, Sonnet Miltonic, Spenserian Sonnet, Shakespearean Sonnet, và Sonnet Ý đều là các loại sonnet trong tiếng Anh. Ngũ âm Lambic là kiểu vần được quan sát cẩn thận trong Sonnets. Sonnet là một tập hợp con của một tập thơ.
Bài thơ không được cấu trúc theo bất kỳ cách nào. Bài thơ là bất kỳ tác phẩm viết nào tuân theo một bộ nguyên tắc. Số dòng trong một bài thơ không cố định. Trái ngược với sonnet, một bài thơ có thể có bất kỳ số dòng nào.
Trong tiếng Anh, có nhiều thể loại thơ khác nhau. Thơ tự do, ode, limerick, tường thuật, couplelet, villanelle, elegy, sestina, haiku, sonnet, và ballad là một số thể loại thơ.
Các mẫu vần khác nhau được sử dụng trong các mẫu gieo vần của các thể loại thơ khác nhau. Bài thơ là một tập hợp các sonnet.
Bảng so sánh
Các thông số so sánh | Bài thơ mười bốn câu | Thơ |
---|---|---|
đường | Mười bốn | Không cụ thể |
Structure | cấu trúc cụ thể | Không có cấu trúc cụ thể |
Xuất xứ | Từ tiếng Ý | Từ tiếng Hy Lạp |
mô hình gieo vần | Ngũ thập lục lam | Các mẫu Metrical khác nhau |
Các loại | Sonnet Terza Rima, Sonnet Miltonic, và Sonnet Spenserian | thơ tự do, ode, và limerick |
Sonnet là gì?
Tham số Lambic là mô hình gieo vần được quan sát cẩn thận trong trường hợp Sonnets. Sonnets là một tập hợp con của một tập thơ lớn hơn.
Curtal Sonnet, Terza Rima Sonnet, Miltonic Sonnet, Spenserian Sonnet, Shakespearean Sonnet, và Italian Sonnet là những ví dụ về sonnet bằng tiếng Anh.
Sonnets có một cấu trúc chính xác phải được tuân theo khi viết chúng. Sonnets không thể được viết nếu khuôn khổ bị cản trở. Có một số dòng nhất định phải viết sonnet. Ở dạng này, chỉ có mười bốn dòng.
Sonnet là một loại thơ có tổng cộng mười bốn dòng. Bất kỳ loại sơ đồ gieo vần chính thức nào cũng có thể được sử dụng. Cụm từ “Sonnet” bắt nguồn từ từ tiếng Ý “Sonetto”, có nghĩa là “bài hát nhỏ”.
Bài thơ là gì?
Trong tiếng Anh, có nhiều thể loại thơ khác nhau. Thơ tự do, ode, limerick, tường thuật, câu đối, villanelle, thanh lịch, sestina, haiku, sonnet và ballad là một số loại thơ.
Các mẫu vần khác nhau được sử dụng để tuân theo mẫu vần trong các loại thơ khác nhau. Các bài thơ không có bất kỳ hình thức tổ chức hay cấu trúc nào cả. Bài thơ là bất cứ thứ gì được sáng tác trong khi tuân thủ các nguyên tắc cụ thể.
Không có số dòng cố định trong đó một bài thơ phải được viết. Không giống như sonnet, một bài thơ có thể có bất kỳ số dòng nào. Bài thơ là một tập hợp con của một loạt sonnet lớn hơn.
Bài thơ là tác phẩm viết trong đó ý tưởng và tình cảm được thể hiện thông qua việc sử dụng hình ảnh, nhịp điệu, vần điệu và hướng độc đáo. Thuật ngữ “thơ” bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “bài thơ”, có nghĩa là “sáng tác hoặc làm”.
Sự khác biệt chính giữa Sonnet và thơ
- Sonnet là một loại thơ bao gồm tổng cộng mười bốn dòng. Nó có thể thuộc bất kỳ loại sơ đồ gieo vần chính thức nào. Mặt khác, thơ là một thể loại văn học mà tư tưởng, tình cảm được bộc lộ ở chỗ sử dụng nhuần nhuyễn các hình ảnh, nhịp điệu, vần điệu và đặc sắc.
- Thuật ngữ “Sonnet” bắt nguồn từ thuật ngữ “Sonetto”, một từ tiếng Ý có nghĩa là “Bài hát nhỏ”. Mặt khác, thuật ngữ “Bài thơ” có nguồn gốc từ thuật ngữ “bài thơ”, là một từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là “sáng tác hoặc làm”.
- Sonnets sở hữu một cấu trúc cụ thể trong đó chúng phải được viết. Nếu cấu trúc bị cản trở, Sonnet không thể được thực hiện. Mặt khác, thơ không có kiểu kết cấu, cấu tứ cụ thể. Những gì viết ra đều có cân nhắc, có khuôn phép nhất định thì gọi là thơ.
- Số dòng mà sonnet cần được viết là cố định. Ở đây, chỉ có mười bốn dòng tồn tại trong cấu trúc. Mặt khác, số dòng trong một bài thơ không cố định. Một bài thơ có thể thuộc bất kỳ dòng nào, không giống như sonnet.
- Có nhiều loại sonnet khác nhau bằng tiếng Anh, đó là Sonnet Curtal, Sonnet Terza Rima, Sonnet Miltonic, Sonnet Spenserian, Sonnet Shakespearean và Sonnet Ý. Mặt khác, có nhiều thể loại thơ bằng tiếng Anh. Thơ tự do, ode, limerick, tường thuật, câu đối, villanelle, thanh nhã, sestina, haiku, sonnet và ballad.
- Mô hình gieo vần được tuân thủ nghiêm ngặt trong trường hợp Sonnets được gọi là tham số lambic. Mặt khác, kiểu gieo vần được tuân theo trong trường hợp của nhiều thể loại thơ khác nhau là những kiểu vần khác nhau.
- Sonnets là một tập hợp con thuộc về một tập hợp các bài thơ. Mặt khác, bài thơ là một tập hợp bao gồm các sonnet như một tập hợp con.