Đối với nhiều người trong chúng ta, cả 'ngân hàng khu vực công' và 'ngân hàng quốc hữu hóa' có vẻ không quá khác biệt, nhưng có một số khác biệt đáng chú ý giữa chúng.
Ngân hàng là một tổ chức tài chính xử lý tiền mặt do công chúng ký gửi, bảo vệ chúng và cung cấp các khoản vay cho công chúng.
Khu vực công và các ngân hàng quốc hữu hóa thuộc danh mục ngân hàng thương mại ở Ấn Độ.
Chắc hẳn bạn đã từng đến ngân hàng hoặc thực hiện một số công việc liên quan đến ngân hàng một lần hoặc có thể nhiều lần. Ngày nay, chúng ta không cần phải đến ngân hàng vì có những lựa chọn thay thế như ngân hàng ròng.
Các ngân hàng có ba loại: khu vực tư nhân, khu vực công và quốc hữu hóa.
Thuật ngữ ngân hàng khu vực công và ngân hàng quốc hữu hóa có thể được sử dụng thay thế cho nhau và đôi khi đề cập đến điều tương tự.
Các nội dung chính
- Ngân hàng khu vực công là ngân hàng thuộc sở hữu của chính phủ và chịu trách nhiệm cung cấp các dịch vụ tài chính cho công chúng.
- Các ngân hàng quốc hữu hóa trước đây là ngân hàng thuộc sở hữu tư nhân nhưng đã được chính phủ tiếp quản để trở thành ngân hàng khu vực công.
- Các ngân hàng khu vực công được điều hành dưới sự hướng dẫn của Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ, trong khi các Ngân hàng quốc hữu hóa được điều hành bởi Đạo luật các công ty ngân hàng (Mua lại và chuyển giao cam kết).
Ngân hàng khu vực công vs Ngân hàng quốc hữu hóa
Sự khác biệt giữa ngân hàng khu vực công và ngân hàng quốc hữu hóa là ngân hàng khu vực công trực thuộc nhà nước hoặc chính quyền trung ương ngay từ đầu. Ngược lại, một ngân hàng quốc hữu hóa bắt đầu với tư cách là một ngân hàng khu vực tư nhân nhưng được chính phủ quản lý vì mục đích tốt hơn.

Ngân hàng khu vực công trực thuộc chính phủ vì chính phủ là một bên liên quan quan trọng trong các ngân hàng này. Có 12 ngân hàng khu vực công ở Ấn Độ. Các ngân hàng khu vực công bao gồm các ngân hàng được quốc hữu hóa bởi vì mọi ngân hàng được quốc hữu hóa đều đang hoặc sẽ trở thành ngân hàng khu vực công.
Một ngân hàng quốc hữu hóa bắt đầu như một ngân hàng khu vực tư nhân nhưng sau đó được chính phủ tiếp quản để cải thiện. Trước đó có 20 ngân hàng được quốc hữu hóa, nhưng hiện nay có 19 ngân hàng do hai trong số đó sáp nhập.
Bảng so sánh
Các thông số so sánh | Ngân hàng khu vực công | Ngân hàng quốc hữu |
---|---|---|
Định nghĩa | Một ngân hàng khu vực công là một ngân hàng trong đó các bên liên quan đa số là chính phủ. Các ngân hàng quốc hữu hóa cũng là các ngân hàng khu vực công. | Trước đó có 20 ngân hàng được quốc hữu hóa, nhưng hiện tại có 19 ngân hàng do hai ngân hàng này sáp nhập sau đó. |
Số ngân hàng | Có 12 ngân hàng khu vực công ở Ấn Độ. | Đó là một thuật ngữ hẹp hơn so với các ngân hàng khu vực công và một ngân hàng khu vực công không cần phải quốc hữu hóa. |
chiều rộng | Các ngân hàng khu vực công bao gồm tất cả các ngân hàng quốc hữu hóa trong đó vì đây là một thuật ngữ rộng hơn. | Đó là một thuật ngữ hẹp hơn so với các ngân hàng khu vực công và một ngân hàng khu vực công không cần phải là một ngân hàng quốc hữu hóa. |
Bắt đầu như | Các ngân hàng này khởi đầu là ngân hàng trực thuộc chính quyền bang hoặc chính quyền trung ương. | Các ngân hàng này bắt đầu là ngân hàng khu vực tư nhân hoặc thuộc quyền sở hữu của ai đó. |
Các ví dụ | Ngân hàng Quốc gia Punjab, Ngân hàng Baroda, Ngân hàng Trung ương Ấn Độ, Ngân hàng Nhà nước Ấn Độ, v.v. | Ngân hàng UCO, Ngân hàng Liên minh Ấn Độ, Ngân hàng Dena, v.v. |
Ngân hàng khu vực công là gì?
Ngân hàng khu vực công là ngân hàng trong đó cổ đông lớn (hơn 50%) là chính phủ và chính phủ chịu trách nhiệm về tất cả các hoạt động diễn ra trong đó. Các ngân hàng quốc hữu hóa cũng là ngân hàng khu vực công.
Hiện có 12 ngân hàng khu vực công ở Ấn Độ. Họ đang:
- Punjab National Bank
- ngân hàng Baroda
- Ngân hàng Ấn Độ
- Ngân hàng Trung ương Ấn Độ
- Ngân hàng Canara
- Ngân hàng Union của Ấn Độ
- Ngân hàng hải ngoại Ấn Độ
- Ngân hàng Punjab và Sind
- Ngân hàng Ấn Độ
- Ngân hàng UCO
- Ngân hàng Maharashtra
- Ngân hàng Nhà nước Ấn Độ

Ngân hàng quốc hữu là gì?
Quốc hữu hóa là quá trình chính phủ tiếp nhận bất kỳ công ty, cơ quan hoặc tổ chức tư nhân nào vì lợi ích của quốc gia.
Các ngân hàng quốc hữu hóa bắt đầu với tư cách là ngân hàng khu vực tư nhân nhưng sau đó được chính phủ tiếp quản.
Chính phủ Ấn Độ sở hữu một ngân hàng quốc hữu hóa. Các ngân hàng khu vực tư nhân được quốc hữu hóa để tăng nền kinh tế chung của đất nước.
Trước đó, trước Độc lập, các ngân hàng từng là của tư nhân. Tuy nhiên, sau này, tức là sau khi giành được độc lập, chính phủ bắt đầu quốc hữu hóa các ngân hàng, và do đó, các ngân hàng quốc hữu hóa đã được thành lập để phục vụ lợi ích của công chúng.
Hiện tại, có 19 ngân hàng quốc hữu hóa ở Ấn Độ. Tên của họ, cùng với số năm quốc hữu hóa, như sau:
- Ngân hàng Andhra- 1980
- Ngân hàng Allahabad- 1969
- Ngân hàng Baroda- 1969
- Ngân hàng Ấn Độ- 1969
- Ngân hàng Maharashtra- 1969
- Ngân hàng Canara- 1969
- Ngân hàng Trung ương Ấn Độ- 1969
- Ngân hàng Tổng công ty- 1980
- Ngân hàng Dena- 1969
- Ngân hàng Ấn Độ- 1969
- Ngân hàng Hải ngoại Ấn Độ- 1969
- Ngân hàng Thương mại Phương Đông- 1980
- Ngân hàng Punjab & Sind- 1969
- Ngân hàng Quốc gia Punjab- 1969
- Ngân hàng Syndicate- 1969
- Ngân hàng UCO- 1969
- Ngân hàng Liên minh Ấn Độ- 1969
- Ngân hàng Thống nhất Ấn Độ- 1969
- Ngân hàng Vijaya- 1969

Sự khác biệt chính giữa các ngân hàng khu vực công và các ngân hàng quốc hữu hóa
- Mọi ngân hàng quốc hữu hóa cũng được coi là ngân hàng khu vực công, trong khi tất cả các ngân hàng khu vực công không được coi là ngân hàng quốc hữu hóa.
- Có 19 ngân hàng được quốc hữu hóa và chỉ có 12 ngân hàng khu vực công ở Ấn Độ.
- Một ngân hàng quốc hữu hóa bắt đầu với tư cách là một ngân hàng khu vực tư nhân nhưng được chính phủ tiếp quản, trong khi một ngân hàng khu vực công bắt đầu như một ngân hàng trực thuộc chính phủ.
- Ngân hàng khu vực công là một thuật ngữ rộng hơn so với một ngân hàng quốc hữu hóa. Các ngân hàng quốc hữu hóa thuộc các ngân hàng khu vực công.
- Tất cả các ngân hàng được quốc hữu hóa đều là ngân hàng khu vực công, hoặc họ sẽ trở thành ngân hàng khu vực công, trong khi ngân hàng khu vực công không bao giờ có thể trở thành ngân hàng quốc hữu hóa.
